Trường Dạ Vô Ninh - Đêm Dài Không Yên

Chương 9: Trường Ninh




“Từng gặp rồi, rất nhiều năm về trước, ngày mà ngươi gả cho hắn.” Nàng nghiến răng gằn từng chữ, “Ta chen chúc trong đám cưới náo nhiệt, mong chờ muốn diện kiến tân nương của hắn. Nghe đồn đó chính là đứa con gái duy nhất của đô hộ Đồng đại nhân, chẳng biết mặt mũi ra sao méo mó thế nào. Chợt, lúc ấy có ngọn gió lướt qua thổi bay khăn voan của ngươi, ta thấy hắn kéo ngươi lại nói với ngươi rằng: Dục nhi, hôm nay nàng rất xinh đẹp…”
Đêm hôm đó, ta thất thểu chạy ra khỏi Phật đường.
Ta chẳng thể nào xác định rõ phương hướng được nữa, hoàng cung này hôm nay sao mà xa lạ quá, thậm chí còn xa lạ hơn cả chùa An Nguyên.
Lịch sử như được lặp lại một lần nữa, ký ức về những đêm trăng dài đằng đẵng lúc còn ở chùa An Nguyên, ký ức về dáng vẻ tả tơi loạng choạng lẫn trong màn đêm u tối khi ta đang cố vùng vẫy để thoát khỏi cơn mê và bóng đè lũ lượt tràn về. Mà nay, ta chỉ muốn dùng hết sức mình để trốn chạy sự thật tàn khốc đổ nát.
Đã nhiều năm trôi qua, thế nhưng khi đối diện với những chuyện khi xưa ta vẫn bị đánh đến gục ngã, mất sạch mũ giáp, không hề có tiến bộ.
Ba mươi mốt tháng mười, sau cái ngày giằng co quyết liệt ở Trường Tín điện thì ta không thấy hoàng đế đâu nữa.
Không chỉ có mỗi hoàng đế mà những người khác cũng vậy, ta cáo ốm chẳng muốn gặp ai, không chịu ra cửa cũng không để ai vào thăm.
Suốt ngày ta lôi kéo Dẫn Diên bảo cô ấy hãy kể cho ta về chuyện của Lâm hoàng quý phi, chỉ một chút xíu thôi cũng được.
Qua lời kể của Dẫn Diên, hình ảnh nữ nhân ấy hiện lên càng chân thật sống động, ngược lại lòng ta càng thêm đau đớn khôn nguôi, vì thế lại càng muốn truy hỏi đến cùng.
Dẫn Diên kể về chuyện trước khi hoàng đế đăng cơ, thực ra trong cung rất ít người nhắc đến việc này, sở dĩ cô ấy biết được vài thông tin nho nhỏ là do có nghe hoàng đế nói với Lâm hoàng quý phi. Thường thường thì vào những lúc hai người “vành tai tóc mai quấn quýt không rời”, cô ấy hay nghe lỏm được mấy lời rì rầm nỉ non của hắn: “Dục nhi, nếu có thể sớm hơn, nếu mẫu phi đứng lên tranh đoạt, nếu mẫu phi được sủng ái hơn thì trước khi lên ngôi hoàng đế trẫm đã không phải làm một ngũ hoàng tử vô dụng thất bại, trẫm có thể sống như nhị ca vậy, có thể đường hoàng rước nàng vào cửa…”
Những khi như vậy Lâm hoàng quý phi sẽ vội vàng đáp lại: “Bây giờ cũng chưa muốn mà, huống chi tương lai còn dài.”
Dẫn Diên tặc lưỡi nói tiếp: “Vẫn là Lâm hoàng quý phi biết dỗ hoàng thượng nhất, ngắn ngủi vài câu thôi đã làm ngài hài lòng không than thở nữa, mỗi lần hoàng thượng nghe xong thì đều quay sang ôm nàng tình ý sâu đậm.”
“Ngươi chứng kiến hết ư?” Ta ngạc nhiên thốt lên.
“Tất nhiên rồi, không chỉ một mà là rất nhiều lần.” Việc này khiến cô nàng Dẫn Diên ưỡn ngực lấy làm tự hào lắm.
Dù không nhìn thấy tận mắt không nghe được tận tai, nhưng chỉ cần tưởng tượng thôi ta cũng đã cảm nhận được sự sủng ái của hoàng đế dành cho Lâm hoàng quý phi lớn đến nhường nào, sủng ái tới mức tất cả mọi người đều biết. Đây cũng là lý do vì sao việc sau khi Lâm hoàng quý phi qua đời, hoàng đế không trách phạt Giang Tiếu Tình trở thành bí ẩn lớn nhất hậu cung, đến tận bây giờ vẫn chưa có lời giải đáp.
Hậu cung cũng đặt ra khá nhiều giả thiết khác nhau cho việc này, có người bảo Vinh quý phi dùng yêu ma quỷ kế mê hoặc hoàng đế, hoàng đế thì có mới nới cũ, sinh lòng chán ghét rồi vứt bỏ Lâm hoàng quý phi mà mình từng nâng niu che chở trong lòng bàn tay. Cũng có ý kiến cho rằng nhà mẹ đẻ của Lâm hoàng quý phi ý đồ mưu phản, thậm chí còn nói hoàng quý phi cho hoàng đế “đội nón xanh”, cái thai trong bụng chưa chắc đã là của ngài.
“Vậy ngươi nghĩ là nguyên nhân gì?” Ta hỏi Dẫn Diên.
Dẫn Diên liếc ta một cái: “Chuyện của hoàng thượng ai hiểu được, người là…, đúng vậy, là nữ nhân có kinh nghiệm tình cảm phong phú được hoàng thượng sủng hạnh. Ôi, chung quy chỉ có thể kết luận rằng hoàng thượng là thiên tử, khẩu vị và suy nghĩ không giống người bình thường.”
Đêm xuống ta lại đến Phật đường, Uyển phi vẫn quỳ ở trong, thái độ thành kính chưa từng thay đổi.
Ta bước tới quỳ xuống cạnh nàng, nhẹ nhàng cất giọng hỏi: “Tỷ niệm cái gì vậy?”
Sắc mặt nàng vẫn ung dung như cũ, chỉ có tiếng niệm kinh là dần lớn hơn: “Phật Tổ phù hộ, oan có đầu nợ có chủ, cả nhà Hầu Uyên Doanh không kẻ nào được chết tử tế.”
“Hầu Uyên Doanh là ai cơ?” Ta hỏi.
Uyển phi nhìn ta với vẻ mặt khinh bỉ, chậm rãi nói: “Người mà các ngươi suốt ngày vây quanh nịnh hót, khúm núm gọi một tiếng Thục Nghi hoàng quý phi chứ còn ai.”
“Trời ạ.” Ta vội che miệng nàng lại, “Không ai cấm tỷ nghĩ đâu, nhưng tuyệt đối đừng nói ra.”
Uyển phi tỏ rõ thái độ ghét bỏ: “Ngươi hỏi ta còn gì?”
“Được được được.” Ta buông nàng ra thấp giọng hỏi: “Tỷ hận nàng ta lắm ư?”
“Ta không được hận sao? Nếu không có Hầu gia ra tay giúp đương kim hoàng thượng giết Thừa Du thì giờ ta đã là thê tử của chàng lâu rồi, đâu phải ngậm đắng đi làm Uyển phi cho người khác!”
Vị Uyển phi này thật sự rất mạnh mẽ, từng khát khao hy vọng đến dường nào thế mà giờ đây đã hóa nỗi tiếc nuối in hằn trong tim, nàng chỉ đơn giản là muốn trở thành thê tử của người mình thương mà thôi. Đáng giận thay vận mệnh vô tình, tưởng chừng ước nguyện nhỏ bé sẽ sớm thành hiện thực nhưng ai ngờ đâu cuối cùng cũng bị phá tan trong vụ huyết án bảy năm trước.
Ta nhẹ nhàng nhắc nhở nàng: “Vậy tỷ nên hận hoàng thượng mới đúng chứ, Hầu gia chẳng qua chỉ là thanh kiếm trong tay hắn, người điều khiển thanh kiếm mới là người đáng hận nhất.”
“Hận kiểu gì đây?” Uyển phi bật lên tiếng cười lạnh lẽo thê lương, “Ta không hận hắn được, dù cho ngàn lần vạn lần không cam tâm nhưng suy cho cùng ta vẫn là phi tần của hắn, nhoáng cái đã gả cho hắn bảy năm rồi. Nghĩ kỹ lại thì hoàng thượng đối xử với ta cũng không phải tệ bạc, với nhà mẹ của ta cũng khoan dung rộng lượng, hắn đã cho ta sự dịu dàng, cũng khiến cho ta ảo tưởng bản thân mình đã yêu và được yêu. Vả lại, hai chúng ta còn có đứa nhỏ…”
Bấy giờ ta mới nhận ra cảnh ngộ của Uyển phi với ta chẳng khác nhau là mấy, cũng bị thời gian trong cung trói chặt lại mọi tự do yêu ghét hận thù.
Nàng hận hoàng đế, nàng yêu thái tử, đó là hai điều không thể phủ nhận, tuy nhiên thời gian có thể xóa sạch mọi thù hận thế nhưng lại không làm mất đi tình yêu của nàng dành cho thái tử. Thời gian khiến nàng quên mất lý do để bản thân tiếp tục oán hận Lý Thừa Mục, nhưng lại không dập tắt được ngọn lửa căm thù sâu trong thâm tâm nàng. Cho nên nàng chẳng còn cách nào khác, nàng phải tìm một lối thoát cho chính mình, nếu đã không hận được người khởi xướng vậy thì cứ hận thanh kiếm trong tay hắn, hận cả nhà Thục Nghi hoàng quý phi.
Uyển phi nói, năm năm trước nàng đã từng mang thai.
Đứa nhỏ này như một sợi dây ràng buộc, lại giống chén canh Mạnh Bà khiến nàng bất đắc dĩ phải rũ sạch mọi dây dưa của quá khứ, đối mặt với mối quan hệ giữa nàng và Lý Thừa Mục. Uyển phi yêu thái tử chết đi sống lại, thì bây giờ nàng phải học cách yêu sinh linh bé nhỏ đang đến với thế giới này.
Thực tế Uyển phi đã làm vậy, mười tháng mang thai khổ cực, nàng từng cho rằng yêu thương đứa con của mình cũng giống như đang gián tiếp yêu hoàng đế vậy, mà có vẻ ngài cũng có tình cảm với nàng đấy chứ.
Sau khi tiểu công chúa Ngọc Hoàn của họ ra đời, Uyển phi hoàn toàn đắm chìm trong niềm vui sướng được làm mẫu thân một thời gian dài, cũng tự ảo tưởng mình đã cởi bỏ được khúc mắc của quá khứ đã qua. Đến tận một năm sau, đứa nhỏ ấy vội vàng đến, rồi cũng vội vàng đi.
“Khi đó Hoàn nhi còn chưa tròn một tuổi, là đứa con duy nhất của hoàng thượng. Con bé nhỏ như thế, đáng yêu như thế, thân phận lại tôn quý, ta không hiểu, cũng không tin nổi con ta sẽ ra đi một cách dễ dàng đến vậy.” Nói đến đoạn này, tuy có xúc động nhưng Uyển phi không hề rơi giọt lệ nào. Ta đoán, hẳn là quá khứ bảy năm với vô vàn tâm sự đó đã vắt kiệt nước mắt của nàng, thế nên cho dù vết sẹo kia tuy rằng vẫn luôn nhói đau nhưng đã không còn khiến nàng để lộ dáng vẻ yếu đuối của mình ra trước mặt người khác nữa rồi.
Uyển phi kể đó là một ngày mùa đông, hoàng đế triệu nàng đến Trường Tín điện, nàng vừa vào đã thấy nhũ mẫu hầu hạ tiểu công chúa quỳ sụp dưới đất, nói mình vừa quay đi lấy đệm chăn cho tiểu công chúa, chỉ một khoảnh khắc không để ý mà tiểu công chúa đã đánh đổ lư than. Từng miếng than cháy đỏ nóng rực rơi xuống người đứa nhỏ, mùi da thịt cháy phút chốc bốc lên cùng với tiếng khóc, tiếng rên rỉ thảm thiết của tiểu công chúa.
Uyển phi bảo đến đây nàng thực sự không nghe được nữa, nhấc chân đá thẳng vào người nhũ mẫu rồi xoay người chạy như điên như dại đến Dục Anh đường mặc cho gió lạnh rét buốt cứa vào da thịt. Sức khỏe nàng vốn không tốt, lúc chạy nàng đã tiêu hao rất nhiều thể lực, nhưng nàng vẫn gắng gượng ôm lấy thân mình nho nhỏ, hơi thở mỏng manh, run rẩy không ngừng của đứa con mình đứt ruột sinh ra, bao bọc nó trong vòng tay. Đó là lần thứ hai nàng cảm nhận được hơi thở tử thần đang đến cướp đi người thân yêu của mình.
Ba ngày sau, Ngọc Hoàn của nàng đã mãi mãi ra đi dù cho nàng đã dùng đủ mọi biện pháp. Thân thể Ngọc Hoàn dần lạnh ngắt, nàng lại ôm vào lòng cả thiên hạ bé nhỏ của mình không chịu buông tay.
Việc này không hợp với thể chế xưa nay, nếu trong cung có người mất, dù là trẻ con thì cũng phải làm theo lễ nghi nhập liệm chôn cất. Nhưng nàng nhất quyết không thuận theo, ngày qua ngày chỉ khoác chiếc áo mỏng manh ngồi thẫn thờ trong gió tuyết, mà Dục Anh đường cũng chẳng còn nghe thấy tiếng khóc trẻ thơ non nớt như ngày nào nữa. Nàng ngây dại ôm chặt thân thể lạnh lẽo của tiểu công chúa, còn hoàng đế thì lẳng lặng ôm nàng. Một ngày, hai ngày, ngài vẫn luôn kề cạnh bên nàng, cho đến lúc nàng không chống đỡ được nữa mà ngất đi.
Uyển phi mê man ba ngày, khi tỉnh dậy thì Lý Thừa Mục luôn sát phạt quyết đoán đã xử tử nhũ mẫu và quản sự của Dục Anh đường, những người khác cũng đang chờ bị xử lý. Hắn ôm thân mình gầy yếu xanh xao của nàng, thủ thỉ bên tai nàng: “Hoàn nhi đi rồi, trẫm sẽ thay Hoàn nhi yêu thương nàng, bầu bạn với nàng.”
“Cũng chính từ khi đó cơ thể của ta bắt đầu nảy sinh mầm bệnh.” Uyển phi nhìn ta, giọng nói chẳng chút hơi ấm, tựa như đống than lửa và tiếng khóc sau Dục Anh đường nhiều năm về trước, “Nhưng ngươi nói xem, ta nên hận ai đây? Ta cũng cố gắng chứ, nhưng mà, ta vẫn không thể hận hắn được…”
Ta chưa từng làm mẹ bao giờ, thế mà lúc này từng câu chữ và bi ai của nàng đã buộc ta phải nhấm nháp nỗi đau đớn tột cùng của người làm mẹ khi mất đi cốt nhục của mình. Ta chỉ muốn ngăn nàng lại bảo nàng đừng nói nữa. Uyển phi cũng là một nữ nhân vô cùng thần kỳ, lời nàng nói không làm người khác sợ hãi thì cũng mang đến thương cảm vô biên, tóm lại là ép đối phương đến nỗi phải chạy trốn, trốn không được thì bịt miệng nàng lại, bịt không được thì tự che hai tai mình để khỏi phải nghe mấy lời oán than âu sầu đó nữa.
Nhưng ta đã kiềm chế, giờ phút này ta chỉ muốn ôm nàng, giống như hoàng đế của nhiều năm trước, sưởi ấm lục phủ ngũ tạng lạnh lẽo của nàng.
Nàng lại tự ôm lấy chính mình không cho kẻ nào đến gần, ta không biết lúc ấy trong lòng nàng nghĩ gì, là Hoàn nhi của nàng, hay hoàng đế, hay là phế thái tử.
“Ngươi đi đi, sắp đến mồng một rồi, ta ở đây chờ Thừa Du…” Giọng nàng run run, “Ta thường nhớ về cái năm vẫn còn là thiếu nữ mười sáu tươi như hoa, mười dặm hồng trang, nếu người được hắn tự tay vén khăn voan lên là ta thì tốt biết bao nhiêu. Cho dù phải chết cùng hắn, cho dù vải liệm bọc xác không chôn cùng huyệt, cũng tốt hơn là vào cung rồi biến thành kẻ thù của hắn, trơ mắt nhìn Hoàn nhi rời ta mà đi.”
Uyển phi chưa khóc mà ta đã bật khóc nức nở.
Ta bước ra khỏi Phật đường mà nước mắt rơi như đê vỡ, bên ngoài đúng lúc trời nổi sấm đổ mưa từng giọt tí tách.
Ta đến đây một mình, không có Dẫn Diên, cũng không mang theo dù. Mục đích ta tới là muốn đốt ít than trong Phật đường cho người ở đó có thể cảm nhận được sự ấm áp, cho dù nó rất ít ỏi. Nhưng ta không tìm được người, lệ nóng trộn lẫn với nước mưa chảy dài từ má ta xuống tới vạt áo, thấm đẫm nỗi buồn.
Ta giơ tay lau mặt, cũng chẳng biết đó là nước mưa hay nước mắt.
Không rõ đã qua bao lâu, đột nhiên từ phía sau truyền đến tiếng người chạy chậm, rồi có âm thanh gì đó từ xa vọng lại, ta lắng tai nghe thì nhận ra đó là giọng nói lanh lảnh có phần quái gở mà chỉ thái giám mới có, hắn ta hô lên liên tục: “Hoàng thượng, hoàng thượng, người đi chậm thôi ạ, cẩn thận kẻo ngã…”
Ta xoay người, vừa lúc đối diện với đôi con ngươi của hắn, vòng tay của hắn ôm trọn lấy ta, tán ô xòe rộng ngăn cản nước mưa đang không ngừng trút xuống, hơi thở của hắn như hòa vào với hơi thở của ta, khiến cho ta cảm thấy có chút khó thở.
“Cuối cùng trẫm cũng tìm được nàng rồi.” Hắn vén sợi tóc bết trên trán ta, cầm lấy tay ta cẩn thận xoa xoa hai cái, “Lạnh quá.”
“Sao hoàng thượng lại tìm tần thiếp?”
“Thành Hồ Lan cấp báo, con trai độc nhất của Hầu gia, trấn quốc đại tướng quân Hầu Uyên Di tự mình dẫn binh xông vào mặt trận quân địch, đã hy sinh rồi.” Hắn gằn từng chữ một, tuy nhiên vẫn khó nén nổi tâm tình kích động phập phồng, “Hầu gia nắm quyền bao lâu nay, đã đến lúc phải trả lại chỗ cũ.”
“Ngày hôm nay của bảy năm trước, không có Hầu gia thì thái tử sẽ không phải chết. Thái tử không chết thì sẽ không có hoàng thượng của hiện giờ.” Ta nói như thể chuyện này chẳng liên quan gì đến mình.
Hắn siết tay ta chặt hơn: “Ngày đó trẫm khởi binh, Hầu gia đã nên nghĩ tới việc thua, là sẽ thua không còn manh giáp, thắng, thì sẽ là công cao chấn chủ*. Trẫm không phải là công thần đuổi tận giết tuyệt gì cả, chẳng qua mấy năm nay Hầu gia không biết khiêm tốn, một lòng chỉ muốn trẫm lập con gái của ông ta thành Hậu, giao binh quyền cho con trai ông ta, trong triều ngoài triều đều muốn kiểm soát, người như thế trẫm không thể không loại bỏ.”
*Lập được công lớn đe dọa địa vị của vua.
“Giết người diệt tâm, khiến cho đứa con trai độc tôn của ông ta chết trận ngoài sa trường, để Hầu gia từ đó về sau tuyệt hậu, Hầu lão thượng thư dù có quyền cao chức trọng thì cũng hoàn toàn cắt đứt hy vọng. Thủ đoạn của hoàng thượng đúng là cao thâm.” Ta cười lạnh, “Chỉ sợ chiến loạn ở thành Hồ Lan cũng có dính dáng đến hoàng thượng.”
Hắn cũng chẳng vòng vèo mà thản nhiên thừa nhận thủ đoạn dứt khoát của mình: “Không sai, đây là chiến thuật vẹn cả đôi đường. Chỉ cần để tướng lĩnh Hầu Uyên Di bỏ mình trong chiến tranh loạn lạc, giúp trẫm xóa bỏ tai họa thì trẫm sẽ bảo vệ được cho biên thùy yên ổn mười năm, quân ta tuyệt đối sẽ không xâm chiến.”
Lời của hắn khiến ta không rét mà run, rõ ràng bàn tay cầm tay ta ấm áp như vậy.
“Điều đó và việc hoàng thượng tới tìm ta có liên quan tới nhau sao?”
“Hiện giờ đã không còn ai có thể kìm hãm trẫm nữa rồi, trẫm có thể cho nàng một danh phận.” Hắn ôm lấy vai ta, “Bảy năm, Dục nhi, bảy năm, trẫm chưa bao giờ lập Hậu.”
Đúng vậy, ngần ấy năm, từ ngũ hoàng tử không có tiếng tăm mặc người bắt nạt ức hiếp chuyển mình trở thành đấng quân vương đứng trên cao nhìn xuống cả thiên hạ. Nhưng chúng ta lại chẳng đợi được thời gian, nhìn lại quá khứ đẫm máu ấy, quá khứ “trả lại chàng hạt châu sáng, hai hàng nước mắt ròng ròng”*, đó vĩnh viễn là rào cản ngăn cách hai ta.
“Nếu hoàng thượng đã muốn cho ta, vậy thì năm ta mười sáu tuổi sao người không thực hiện luôn đi?”
Câu hỏi đó ta vẫn luôn giấu kín trong lòng, đến giờ khắc này rốt cuộc cũng thốt ra được.
“Rõ ràng ta đã chờ lâu như thế, từ năm bảy tuổi quen biết hoàng thượng, chàng cưỡi ngựa tre lại, chạy quanh giường nghịch ném quả mơ xanh*. Ta một lòng chờ đợi, đợi từ tóc trái đào tóc để chỏm rồi đến khi trổ mã thành thiếu nữ tuổi trăng tròn, chỉ đợi hoàng thượng dâng tấu xin cưới ta về làm vợ. Nhưng cuối cùng ta đợi được cái gì đây?” Ta muốn đẩy hắn ra nhưng hắn lại dùng hết sức, ta mệt mỏi, cả người xụi lơ, chỉ có thể bất lực dùng lời lẽ lên án hắn: “Đợi được một tờ giấy minh hoàng, những tưởng là thiên ân đại thưởng, ban cho ta phú quý tột bậc, ai ngờ được thánh chỉ viết sẽ gả ta cho thái tử làm thái tử phi! Rõ ràng là từ bảy tuổi ta đã nghĩ rằng, ta sẽ là…” Ta đấm mạnh vào ngực hắn, “Sẽ là tân nương của ngũ hoàng tử Lý Thừa Mục!”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.