Tiệc Báo Thù

Chương 3:




Ngày 18 tháng Năm, khoảng 11 giờ 55 phút, tại phòng làm việc tạm thời của ban chuyên án vụ cướp hội quán Tiêu Tương.
Lúc nãy đọc tin nhắn, Ba Du Sinh vẫn không tỏ thái độ gì, nhưng ba phút sau bước chân của anh đã hơi gấp gáp. Anh không thể liên lạc với di động của Na Lan và điện thoại của ký túc xá. Cũng đã nhắn tin và WeChat rồi nhưng không thấy hồi âm.
Anh tức tốc gọi cho bạn cùng phòng với Na Lan là Đào Tử. Không ai bắt máy. Anh gửi tin nhắn trên WeChat. Rồi tiếp tục suy nghĩ xem còn cách nào liên lạc với Na Lan.
À, lớp học! Na Lan thường tự chế nhạo rằng sau khi học xong nghiên cứu sinh, chắc cô sẽ biến thành con mọt sách, hoạt động giải trí chỉ là đến lớp học hoặc thư viện để tra cứu, đọc tài liệu và viết luận văn. Ba Du Sinh tìm mãi mới ra số của khoa Tâm lý đại học Giang Kinh để gọi điện.
Một giọng nam trả lời.
“Na Lan… cô ấy không có ở đây. Anh là…?” Hình như anh ta có vẻ cảnh giác.
Ba Du Sinh hỏi, “Có biết cô ấy đi đâu không?”
“Không. Na Lan có tạt qua hồi sáng, nhưng sau đó đi luôn.”
Ba Du Sinh nói, “Tôi ở Trinh sát Hình sự Sở Công an thành phố, mong anh cho biết họ tên và số điện thoại. Nếu anh gặp Na Lan thì bảo cô ấy gọi cho tôi, có lẽ tôi còn phải phiền anh lần nữa.”
“Không, không cần thiết, tôi cũng chỉ là một giảng viên ở lớp Na Lan…”
“Có việc rất quan trọng, mong anh hợp tác hỗ trợ, chúng tôi buộc phải tìm ra Na Lan ngay.”
Lấy được số điện thoại của anh giảng viên rồi, Ba Du Sinh tiếp tục đi đi lại lại để làm loãng cảm giác bế tắc.
Phải làm gì để liên lạc được với Na Lan?
Di động vẫn lặng ngắt như tờ.
Đào Tử trả lời trên WeChat, “Muốn tìm Na Lan à? Em vừa thấy trên weibo[1] có ai đó đưa tin về vụ cướp táo tợn ở Dư Trinh Lý, huy động cả cảnh sát đặc nhiệm, anh không cần có mặt ở đó ư?”
[1] Mạng xã hội phổ biến ở Trung Quốc.
Ba Du Sinh lập tức gọi vào di động của Đào Tử, “Tôi đang ở Dư Trinh Lý. Na Lan đang ở đâu? Chúng tôi cần cô ấy hợp tác.”
“Na Lan lại gây rắc rối à? Em cũng không biết cô ấy đang ở đâu.”
Ba Du Sinh không đả động gì đến vụ cướp, chỉ dặn Đào Tử nếu biết tin tức về Na Lan thì phải liên lạc với anh ngay.
Gọi điện xong, anh lập tức bảo một kỹ thuật viên của đội hình sự đang có mặt ở hiện trường phân tích xem máy của Na Lan có GPS không, có thể định vị được cô không. Anh còn bảo một cảnh sát khác liên lạc với phó giám đốc công an đang trực chiến ở Sở để liên thông phối hợp tìm tín hiệu di động của Na Lan, nhờ trạm tín hiệu khoanh vùng vị trí của cô. Anh cũng biết là rất khó, rất tốn thì giờ mà chưa chắc đã có kết quả nhưng bắt buộc phải làm xem sao.
Thời gian vẫn lao nhanh, bất chấp tất cả. Năm phút đã trôi qua.
“Đội trưởng!” Điền Lợi Mân chạy lại, giơ máy di động chuyên dùng ra.
Ba Du Sinh thấy lòng trĩu nặng. Sau hai tin nhắn của băng cướp, phía cảnh sát vẫn chưa hề tiến triển, chắc lần này không thể là tin gì hay ho.
Đúng thế. Chỉ một câu, mà từng chữ đều như nhuốm máu: Mười phút nữa không thấy Na Lan, sẽ giết một người.
Khoảng ba tiếng đồng hồ trước khi xảy ra vụ án, tại đại học Giang Kinh.
Sau ba hồi chuông reo, Na Lan nhận ra người gọi đến là Quách Tử Phóng, phóng viên tờ Tin chiều Tân Giang. Cô hỏi, “Chắc không phải anh thúc dục tôi đấy chứ? Còn ba tiếng đồng hồ nữa mới đến giờ ăn trưa mà.”
Quách Tử Phóng, “Đâu dám! Chỉ là, đổi chỗ ăn.”
Na Lan cười, “Ba giờ trước bữa ăn, đổi địa điểm, thì có gì khá hơn chuyện thúc giục người ta?” Quách Tử Phóng vốn rất bẻm mép, nhưng lần này chỉ ậm ờ lúng túng, Na Lan bèn nói, “Tôi đùa thôi mà! Anh đã nói bữa trưa nay là phục vụ nhân dân phải không? Thế thì tôi không ngại địa điểm xa hay gần. Anh cứ cho biết đi?”
“Đã nghe nói đến Tiêu Tương chưa?” Quách Tử Phóng hay úp mở dềnh dàng, Na Lan không còn lạ lẫm gì, bèn đáp, “Không biết! Nghe tên này, có vẻ như nhà hàng Hồ Nam?”
“Cô em ơi, tôi chính thức cảnh tỉnh cô, hãy tiếp xúc với xã hội nhiều hơn! Tiêu Tương mà cũng không biết, chắc cô đã nghe nói đến lầu Ba Khắc chứ?” Anh ta ra vẻ ngạc nhiên.
Na Lan cũng giả bộ nghĩ ngợi, rồi trả lời, “À, nói thế tôi nhớ ra rồi, hình như là một hiệu ăn mới mở ở khu lầu Ba Khắc.”
“May mà cô chưa đến nỗi không thể cứu vãn!” Quách Tử Phóng ngậm ngùi.
Na Lan tự giác khai báo, “Kỳ thực tôi không nhớ ra! Tôi chỉ chồng hai thông tin của anh lên nhau mà thôi.”
“Kết luận của cô căn bản là đúng, nhưng không phải hiệu ăn mà là hội quán, một hội quán với nòng cốt là ẩm thực.”
Lúc này cửa phòng làm việc bỗng mở ra, một thanh niên trạc tuổi Na Lan bước vào, anh là Hảo Tấn Bằng, một giảng viên dạy năm thứ nhất ở khoa, nghe nói anh rất nhanh chóng được các chị em làm khoa học nhất trí đặt cho biệt hiệu “Bằng đẹp trai”. Gần đây hình như anh đã tìm ra quy luật xuất hiện ở văn phòng của Na Lan, nên anh cũng sốt sắng “tăng ca” vào ngày cuối tuần nhằm tiếp cận người đẹp. Anh thường đến trò chuyện với cô, muốn có dịp cùng ăn cơm với cô. Nhưng cô viện cớ đang ra sức giảm béo, bỏ ăn trưa vài bữa và bí mật ăn bánh quy lấp dạ dày. Trước mắt, Na Lan chỉ ứng xử cho lịch sự, nhưng cô chưa rõ mình sẽ kiên trì được bao lâu.
Hảo Tấn Bằng nói, “Kìa, càng ngày em càng đến sớm nhỉ?” Cứ như không nhìn thấy Na Lan đang nghe điện thoại. Na Lan ra hiệu đang bận, “Bằng đẹp trai” mỉm cười ra chiều xin lỗi rồi ngồi xuống chiếc bàn gần đấy, lấy di động ra giả vờ xem. Tư thế ngồi thoải mái của anh ta dường như tuyên bố: anh đây không sốt ruột, anh đây sẵn sàng chờ, để xem cô em có thể gọi điện được bao lâu.
Na Lan đang có nhiều điều muốn hỏi Quách Tử Phóng, ví dụ tại sao lại chuyển địa điểm, tại sao phải đến hội quán? Có biết gần đây các địa phương đang mạnh tay ra đòn vào các hội quán không? Tiêu Tương là hội quán thế nào… Nhưng cô bỗng cảm thấy không cần phải để Hảo Tấn Bằng nghe những điều này, nên nói vào di động, “Anh nhắn địa chỉ đó cho tôi vậy.”
Quách Tử Phóng kinh ngạc, “Thì ra cô không biết thật à?”
Na Lan đành mỉm cười, “Người xuất gia không nói dối.” Rồi cô chào tạm biệt.
Hảo Tấn Bằng tươi cười đứng lên, định bắt đầu tâm sự với Na Lan. Nhưng cô cũng đứng lên, thu dọn bàn làm việc, “Thầy thật cần mẫn, Chủ nhật cũng làm việc!”
“Nếu nói là cần mẫn, ở đây không ai bằng em.” Hảo Tấn Bằng nhìn Na Lan cầm một tập tài liệu photo lên, không rõ sau đây cô định thế nào.
Na Lan nói, “Tôi ngớ ngẩn quá, đã tự nhắc mình rồi mà vẫn quên cầm về nhà mấy tài liệu mà giáo sư Lư cho mượn, nên mới phải chạy đến đây.” Nói rồi cô bước ra ngoài văn phòng, “Tôi không cản trở thầy chuyên cần nữa, thầy đang phấn đấu ba năm được phó giáo sư, năm năm được giáo sư mà.”
Khoảng nửa tiếng đồng hồ trước khi xảy ra vụ án, tại hội quán Tiêu Tương.
Na Lan tìm đến hội quán Tiêu Tương theo địa chỉ mà Quách Tử Phóng cho biết. Thật ra, dù không có địa chỉ cụ thể cũng vẫn tìm được khu vui chơi giải trí mới ở trung tâm Dư Trinh Lý có rất nhiều lầu Ba Khắc này, ba tòa lầu ngói xanh sẫm tường đỏ nhạt trong khu dân cư, đã được tân trang như mới nhưng vẫn giữ nguyên nét cổ kính ngày xưa, không khoe mẽ phô trương. Chúng đã cố gắng xoa dịu những thành kiến về sự bề thế thanh cao, nhưng dù thu mình ra sao chúng vẫn nổi bật giữa các lầu Ba Khắc bụi bậm xám xỉn ở quanh đó. Hai chữ “Tiêu Tương” cách điệu mềm mại bay bướm là thủ bút của Lưu Bình Húc, bậc thầy thư pháp Giang Kinh, được thể hiện bằng đá trắng đen cao cấp trên nền tường hồng ánh bạc, đem lại cảm giác tao nhã thoát tục. Tuy nhiên nó cũng không lấn át được dãy đèn lồng đỏ thắm và sắc màu trang trí lá hoa sặc sỡ ngoài cửa chào mừng ngày khai trương, mặc dù toàn bộ diện mạo của hội quán vẫn thể hiện sự vui mừng hơi kìm nén.
Lầu chính của hội quán là tòa lầu ở giữa ba tòa lầu Ba Khắc liền kề, trông cũng bề thế hơn cả, nó còn có riêng một khoảng sân. Từ chỗ Na Lan đứng nhìn vào thì thấy sân đó rất nhỏ, người ở trong sẽ thấy sân trước rộng rãi, còn sân sau hầu như không tồn tại, tường bao sân xây sát tòa nhà. Các tòa lầu Ba Khắc ở Dư Trinh Lý đều sơn cổng chính màu đen hoặc xám sẫm, nhưng cổng chính của hội quán Tiêu Tương được sơn màu đỏ, hài hòa với tường ngoài, có thể coi nó như một “cửa son” mà không phô trương. Lầu chính, tường ngoài cao đến bốn năm mét, bên trong là tòa nhà ba tầng. Coi như kín cổng cao tường, lại nằm sâu trong ngõ. Hai bên lầu chính là lầu Đông và lầu Tây. Chúng đều nhỏ hơn lầu chính, cũng có sân riêng. Nếu một ngày nào đó xin phép ủy ban địa phương cho mở thông sân lầu chính sang hai bên Đông, Tây, thì cả ba tòa lầu sẽ chung một cái sân. Tuy nhiên, đó là công trình không nhỏ, chắc sẽ phải thi công kéo dài và lỡ mất ngày lành hoàng đạo 18 tháng Năm này.
Trước mặt cả ba tòa lầu, không khí rất náo nhiệt, có các vị khách quý được mời đến chung vui, lại có rất đông du khách tham quan Dư Trinh Lý, họ còn chụp ảnh lưu niệm ngay trước hội quán rồi đăng luôn lên WeChat hay weibo. Na Lan nhận thấy hai tòa lầu bên phải bên trái có khách ra vào liên tục, trước mặt lầu chính tuy đông người qua lại nhưng thực khách ra vào chỉ lèo tèo vài người.
Địa điểm mà Quách Tử Phóng mời cô ăn trưa là lầu chính của hội quán Tiêu Tương. Cô ngạc nhiên, và ngờ ngợ liệu Quách Tử Phóng có báo nhầm cho cô không? Ăn ở một trong hai lầu phụ mới phải chứ. Cô mở WeChat xem lại mẩu tin nhắn, anh ta viết rõ là ở lầu chính.
Cửa son của lầu chính Tiêu Tương đang mở nửa chừng, Na Lan ngập ngừng tiến vào sân, đi thêm vài bước là đến cửa, rồi vào sảnh. Bên trong im phăng phắc, như thể lễ khai trương náo nhiệt chỉ xảy ra ở hai lầu phụ, chứ lầu chính này không có hơi người. Tiền sảnh của lầu Ba Khắc thường không rộng, những lầu xây cất vào thập kỷ 30 thế kỷ trước thậm chí còn bỏ qua tiền sảnh, mà chỉ để một hành lang ngắn. Tiền sảnh của lầu chính Tiêu Tương lại rộng rãi khác thường, không rõ là do được cải tạo hay do người chủ ban đầu giàu có nên đã để như vậy. Một thiếu nữ đứng ở cửa đón khách, cô mặc xường xám nền trắng hoa xanh, làn da mịn màng, mắt, mũi, miệng, cặp mày hàng mi đều hết sức thanh tú, như vừa từ trong tranh bước ra. Cô mỉm cười, “Xin lỗi, lầu chính Tiêu Tương là không gian có tính chất riêng tư.” Rồi cô ta nhìn tờ giấy hồng đặt trên bàn. “Danh sách đặt chỗ, hình như không có chị.”
Na Lan hỏi, “Tôi chưa tự giới thiệu, sao cô biết tôi là ai?”
Đôi má trắng mịn của cô gái hơi ửng hồng, “À, xin lỗi, tôi chưa nói rõ: hôm nay các cổ đông của hội quán đã bao cả lầu chính này, khách dùng bữa trưa đã đến đông đủ, cho nên tôi biết chắc không có chị.”
Gã Quách Tử Phóng chết tiệt, chờ đấy, tôi sẽ cho anh một trận.
Như thể nghe được Na Lan đang giận giữ trách cứ, một người đứng tuổi cao gầy liền lách vào sân. Anh ta đeo cặp kính ngồ ngộ đã lỗi mốt từ thế kỷ trước, có cái cổ dài ngoẵng và mái tóc thưa nhưng rối tinh rối mù. Chính là một trong số ít phóng viên nổi danh Giang Kinh - Quách Tử Phóng!
Anh ta gật đầu với Na Lan rồi bước đến chỗ cô gái tiếp tân, “Em ơi, bọn anh mới đặt chỗ ở Túy Hoa Âm trên tầng ba.”
Na Lan mỉm cười, “Túy Hoa Âm nào? Anh đang nói tiếng lóng với cô em đó à?”
“Túy Hoa Âm là tên một gian riêng ở lầu này. Các gian ở Tiêu Tương đều được đặt tên. Trước mặt em gái này, anh không nói những từ ngữ trưởng giả học làm sang đâu!” Quách Tử Phóng tỏ ra rất đắc ý với câu nói đùa rất ít thiện chí của mình, đầu anh lắc lư khoái trá.
Nhưng cô gái nền nã này lại không “bắt tín hiệu”, cô cau mày, không rõ là vì khó chịu với mồm miệng Quách Tử Phóng hay vì cô lúng túng. Cô lại nhìn tờ giấy hồng đặt trước mặt, lắc đầu, “Không có ai mới đặt chỗ cả!”
Na Lan bèn nhìn sang tờ giấy hồng đặt trên bàn, thấy thiết kế các cột các hàng rất đẹp mắt, cô khẽ hỏi, “Tờ giấy này ở đâu ra?”
“Từ máy tính in ra.”
“Có lẽ hội quán của các cô sử dụng một phần mềm chuyên dùng đặt chỗ, phần lớn các phần mềm như thế này cũng liên thông, phiền cô xem lại có trang nào cập nhật hơn không?” Na Lan lại nói với Quách Tử Phóng, “Người hẹn với chúng ta là…”
Quách Tử Phóng nói, “Tạm thời tiếp tục giữ bí mật.”
Cô gái bèn rảo bước vào trong, rẽ vào gian phụ phía Đông, là văn phòng tiếp tân của lầu chính thì phải. Chưa đầy hai phút sau, cô ta trở ra, vẻ áy náy, “Vâng, rất xin lỗi. Đúng là danh sách đặt chỗ đã cập nhật, đúng là ở gian Túy Hoa m, là gian nhỏ bốn chỗ ngồi, danh sách ghi là đặt ba chỗ. Đúng không ạ?”
Quách Tử Phóng nói, “Hoàn toàn đúng! Em cứ mạnh dạn đi trước dẫn đường cho bọn anh đi!”
Cô gái mỉm cười, hình như định nói gì đó nhưng lại thôi. Cô nghiêng người, chìa tay ra, “Mời anh chị lên gác ạ!” Nói rồi cô đi trước dẫn đường.
Quách Tử Phóng đi sát phía sau, nói, “Cô em định nói gì thì cứ nói đi?”
“Không ạ! Em cảm thấy rất có lỗi với anh chị.” Vẻ mặt cô ta rất chân thành.
Na Lan nói vui, “Lúc nãy cô ấy có ý nhắc anh rằng, hội quán Tiêu Tương là hạng đẳng cấp, không có phòng karaoke đâu! Nếu anh muốn hát những bài dân ca cổ lỗ sĩ thì cứ ra đường Giang Hưng Trung, rất sẵn các phòng karaoke!”
Cô gái ngạc nhiên ngoảnh đầu, “Đúng thế! Sao chị lại biết được?”
Na Lan thầm ngạc nhiên vì cô gái này ứng biến rất linh hoạt, mình chỉ thuận miệng nói thế thôi mà cô ta có thể hồi âm ngay lập tức. Cô ta được giao trách nhiệm đón khách ở lầu chính là phải. Biết đâu, vừa nãy cô ta “lớ ngớ” không xem bản danh sách đặt chỗ đã cập nhật, chỉ là giả bộ thế thôi? Na Lan bèn hỏi, “Trên máy tính có ghi rõ người đặt chỗ là ai không?”
Cô ta lắc đầu, “Không thấy ạ! Chẳng lẽ anh chị lại không biết mình sẽ dùng bữa với ai à?”
Quách Tử Phóng nói, “Bọn anh cũng không biết. Có lẽ chủ chi muốn giữ bí mật đến phút chót.” Anh giơ tay xem đồng hồ. “Chắc là trong vòng mười phút nữa sẽ bật mí.”
Na Lan lấy làm lạ, “Hệ thống lại không thể hiện ai đứng ra đặt chỗ, thì quả là hiếm có! Ít ra cũng ghi là ông X bà Y hoặc số di động mới phải chứ?”
Cô gái nói, “Thông thường là thế, nhưng lần này thì không, chỉ ghi tên phòng, ba người, và các món ăn đã chọn.” Cô ta nghĩ ngợi, rồi gật đầu, “Rất có thể là… người trực điện thoại đặt chỗ đã có chút nhầm lẫn, thấy lầu Đông và Tây đã hết chỗ, bèn chuyển sang lầu chính này. Chúng em đều biết quy tắc ở đây: không dễ gì đặt được chỗ các gian ở lầu chính.”
Na Lan thầm nghĩ, nếu lớ ngớ đặt nhầm phòng rồi lại lớ ngớ quên ghi lại họ tên người đặt chỗ, một nhân viên hai lần lớ ngớ như thế thì có thể hành nghề được bao lâu nữa?
Tầng hai cũng im lặng như tầng trệt. Nếu không nhìn thấy một cậu phục vụ cầm hai chai rượu vang đẩy cửa bước vào một gian phòng, ở trong vọng ra tiếng người nói khe khẽ, thì Na Lan sẽ ngỡ tầng này không có một ai. Cô đưa mắt nhìn tấm biển gắn trên cánh cửa dày nặng của gian phòng ăn đó, viết ba chữ “Mãn Giang Hồng”.
Cô gái tiếp tân dẫn hai người lên tầng ba, rồi dừng lại trước cửa một gian phòng. Tấm biển gắn trên ô cửa trúc màu vàng sẫm viết ba chữ “Túy Hoa m” theo lối Lệ thư. Mở cửa, thấy nên trong bày một bàn vuông không rộng, và bốn ghế mây có đệm êm, phong cách như ngồi chơi ở sân vườn. Tầng ba còn một gian nữa cũng cửa trúc, đang đóng im ỉm, bên trên viết ba chữ “Động Đình Xuân”.
Quách Tử Phóng ngồi luôn xuống ghế. Cậu phục vụ ban nãy nhìn thấy liền bước vào hỏi. “Anh chị dùng đồ uống gì ạ?” Cô gái tiếp tân mỉm cười, nói với hai người, “Rất mong anh chị sẽ hài lòng với trải nghiệm ở hội quán Tiêu Tương hôm nay.” Nói rồi cô quay ra, đi xuống tầng dưới.
Na Lan gọi hồng trà, Quách Tử Phóng gọi bia. Phục vụ nói, “Thực đơn hôm nay đã bao gồm rượu vang, có cần tôi mở một chai không?”
Quách Tử Phóng và Na Lan nhìn nhau. Na Lan nói, “Chúng tôi còn một người nữa chưa đến. Chờ đã, rồi mở rượu sau.”
Cậu ta lui ra. Na Lan nói, “Tôi có cảm giác như đang nằm mơ.”
“Không đến nỗi thế!” Hình như vóc người gầy gò của Quách Tử Phóng không hợp với chiếc ghế mây, anh ta cứ ngọ ngoạy mãi. “Chẳng qua chỉ là một hội quán tư nhân thôi mà. Cô đóng cửa tu hành lâu ngày, nhưng đâu phải là người xa lạ với đời sống xung quanh?”
Quách Tử Phóng là phóng viên của tờ Tin chiều Tân Giang, đã từng đến phỏng vấn Na Lan về vụ án “năm xác chết”. Với tính cách của Na Lan, nhà báo nói chung là cô đã muốn trốn biệt, huống hồ Quách Tử Phóng luôn gây cho người ta ấn tượng là một gã hay động chân động tay, mồm mép thì ba hoa chích chòe, thoạt đầu còn không ít lần bị Na Lan “cấm cửa”. Về sau, Ba Du Sinh đứng ra dàn hòa, nói rằng Quách Tử Phóng là một phóng viên đáng tin cậy, từng nhiều lần đưa tin các vụ trọng án ở Giang Kinh rất sát sao, phải chăng. Sau khi tiếp xúc với Quách Tử Phóng, Na Lan mới tin các nhận xét của Ba Du Sinh, và hiểu rằng cái khoa nói và cái mặt dày là yêu cầu của nghiệp vụ, có cũng là tấm màn che yểm hộ cho tính cách thực sự của anh. Thật ra anh là con người giàu tình cảm, rất tinh ý, từ đó hai người trở thanh bạn hữu.
Na Lan nói, “Chẳng phải tôi phát hoảng vì sự bề thế của hội quán, mà là, có cảm giác khởi nguồn và diễn biến của bữa ăn này không chân thực: người trung gian thì úp úp mở mở, sau đó chuyển địa điểm, việc đặt chỗ cũng mù mờ. Tiếp đó là cái hội quán này, hai lầu phụ náo nhiệt, lầu chính thì lạnh lẽo thiếu vắng hẳn không khí mới khai trương…”
“Có gì lạ chứ? Cô cũng thừa biết gần đây các hội quán bị chà xát mạnh, cho nên họ không muốn phô trương ầm ĩ. Lúc này là buổi trưa, phải đến tối thì mới thực sự đông vui. Người trung gian của chúng ta lúc này đặt được chỗ, chứ tối đến thì chắc chắn chỗ này chật ních, đừng hòng chen vào được.” Quách Tử Phóng tiếp tục điều chỉnh tư thế ngồi.
Na Lan hỏi, “Anh thử nói đôi nét về người trung gian đó xem nào?”
Quách Tử Phóng than thở, “Cô lại bắt bí tôi rồi. Tôi cũng chỉ biết như cô biết mà thôi.”
Mấy hôm trước, Quách Tử Phóng nhận được mẩu tin nhắn nặc danh trên di động, nói là có tin nóng sốt mà chắc chắn Tin chiều Tân Giang sẽ rất thích, nhưng muốn nói chuyện trực tiếp với phóng viên Quách Tử Phóng, đồng thời gọi thêm Na Lan, chính là cô Na Lan trải qua mấy vụ trọng án mà anh từng phỏng vấn viết bài. Khứu giác nghiệp vụ khiến Quách Tử Phóng lập tức hỏi: có liên quan tới các vụ trọng án ngày trước không, thì đối phương nói: chờ khi gặp nhau sẽ biết. Lúc đầu đưa ra địa điểm là phòng ăn xoay tròn trên nóc quảng trường Đằng Long, sau ba tiếng đồng hồ, người ấy chuyển địa điểm tới hội quán Tiêu Tương này.
“Nếu địa điểm gặp mặt không phải ở chốn công cộng đông người, thì tôi sẽ cho rằng họ đặt bẫy gì đó, xấu chơi…” Vừa lúc phục vụ bước vào nên Na Lan không nói hết câu.
Quách Tử Phóng nói, “Yên tâm đi! Không phải tôi mới một hai lần trải qua tình huống na ná thế này. Các tin độc độc quyền, các tin ngoài lề mà phóng viên có được đều từ hình thức này mà ra.” Anh sốt sắng tợp ngụm bia đang trào bọt, rồi ợ một cái thật to. “Huống chi, hôm nay cô cũng nhìn thấy rồi đấy, có thể đặt chỗ tại lầu chính của hội quán Tiêu Tương, thì không phải nhân vật tầm thường đâu… Trừ phi, cô tin vào mấy câu lý luận của cô em ngồ ngộ phụ trách đặt chỗ ở dưới tầng trệt ấy.”
Na Lan nói, “Kể cũng hơi có lý. Nhưng không tầm thường đến mức nào? Vừa nãy nhìn thấy ở tầng hai cũng có người đang ăn mà?”
“Theo bố cục của lầu Ba Khắc, thì chính giữa tầng hai là đại sảnh, nơi chủ nhà chiêu đãi khách quý và người nhà. Ngày xưa, khi tất cả các phòng đều cho thuê, thì đại sảnh là nhà ăn chung và là trung tâm hoạt động vui chơi giải trí. Có lẽ khu vực đó đã được sửa chữa thành hai gian phòng ăn chính, trong gian đó hôm nay có hai cổ đông của hội quán Tiêu Tương và những người bạn trong thương trường với họ, ấy là tôi đoán thế…” Quách Tử Phóng nói.
Na Lan chưa hiểu, “Sao anh biết trong gian đó là những người như thế nào?”
Quách Tử Phóng cười rất đắc ý, “Lúc nãy cậu phục vụ cầm chai rượu mở cửa bước vào, tôi đã liếc thấy hai ông chủ của hội quán là Đới Hướng Dương và Lương Tiểu Đồng có mặt bên trong.”
Na Lan mỉm cười, “Nhà nghề có khác, mắt anh tinh thật!” Cô cũng biết cái quy tắc này: ngồi bàn tròn, thì đa số người ngồi nhìn ra cửa, là chính chủ mở tiệc đãi khách, ngó vào là thấy họ thôi. Cô hỏi, “Đằng nào chủ chi cũng chưa đến, anh thử đoán xem tại sao người cung cấp tin cho chúng ta lại chuyển địa điểm đến đây?”
Quách Tử Phóng gãi đầu gãi tai nghĩ ngợi một lúc, mới nói, “Điều này… khả năng không lớn lắm, có lẽ ông anh này thích làm bộ làm tịch, thích thách thức bản thân, cảm thấy nhà ăn quay giữa vũ trụ trên đỉnh quảng trường Đằng Long tuy sang trọng thật nhưng vẫn đại chúng, quá dễ đặt chỗ, nên mới tìm nơi khác vừa khó đặt chỗ vừa có sức ảnh hưởng, thì lầu chính Tiêu Tương vào ngày khai trương là nơi hội đủ điều kiện này!”
Na Lan nói, “Nghe hơi khiên cưỡng. Ông anh - giả sử là nam giới - ấy, bí hiểm thậm thụt như thế, xem ra không phải là người thích phô trương và tự làm khó bản thân.”
“Cách nói của cô cũng khiên cưỡng. Nhiều khi, những thể hiện khiêm tốn lặng lẽ lại là khúc dạo đầu của sự phô trương, người ta tạm nén nhằm kích thích tò mò, sau đó mới nổ vang trời! Tôi ngày xưa làm phóng viên ngành giải trí cũng từng dùng cái chiêu này.” Ngày xưa Quách Tử Phóng là phóng viên lĩnh vực giải trí cho tờ báo còm, báo lá cải Thanh Giang buổi chiều, từng sống rất chật vật, nhưng với bản lĩnh trơ lì và bền bỉ không lùi, anh gần như đã bao sân toàn bộ chương trình giải trí của các báo “buổi chiều”. Cuối cùng anh được tờ Tin chiều Tân Giang bề thế mua về, trước hết anh là nòng cốt nghiệp vụ trang giải trí của ông chủ mới, sau đó trở thành cây bút chủ lực của trang đời sống xã hội. Cách đây sáu năm, khi vụ án “năm xác chết” xảy ra, chủ biên trang pháp chế không tin cánh phóng viên trẻ tốt nghiệp chính quy có thể gặm nổi mục này, bèn mời Quách Tử Phóng phụ trách chuyên đề về các vụ án lớn. Ba năm sau, nhờ Na Lan mà vụ án “năm xác chết” khép lại được, Quách Tử Phóng lại càng trở thành duy nhất, bởi anh là người đầu tiên phỏng vấn Na Lan, rồi trở thành bạn cô. Năm ngoái, Na Lan và vụ án “chặt ngón tay” gây chấn động bốn phương, Quách Tử Phóng một lần nữa trở thành trụ cột của tờ Tin chiều Tân Giang.
Na Lan nói, “Xem ra, chỉ còn cách chờ nhân vật đình đám này xuất hiện vậy!”
Chờ. Năm phút đã trôi qua. Bia và hồng trà đối ẩm, nhân vật đình đám ấy vẫn chưa đến.
Cuối cùng, Quách Tử Phóng mở di động gọi số máy bắt đầu bằng 137, kết quả, một giọng nói đầm ấm cho biết, “Xin lỗi, số máy này không có.”
Na Lan nhận xét, “Tôi có một cảm giác rất tệ.”
Quách Tử Phóng bực mình tắt máy, “Dạ dày tôi vẫn đang rất háo hức, đằng nào thì cũng gọi món rồi, chúng ta cứ ăn, tòa soạn sẽ thanh toán. Dù sao cũng là một dịp đến hội quán tư nhân dùng bữa, coi như cũng được trải mùi đời.”
Các món ăn chưa thấy đâu thì đã nghe thấy tiếng súng.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.