Tiếng tranh cãi của Dư Hạm và Lý thị vang đến nỗi chưa bước chân vào Lạc Hà Viện đã có thể nghe thấy, Thanh Duy đứng ngoài nhìn, Dư Hạm chắn ngang trước mặt hai đứa bé hòng ngăn cản Huyền Ưng vệ tiến tới lục soát, nàng ta lạnh lùng nói, “Lục soát ta và phu nhân chủ tử đã đành, ngay đến bọn trẻ cũng không tha, chỉ là một đứa con nít, nó giấu được gì trên người hả?”
Thanh Duy không khỏi nhíu mày.
Dưới sự quản lý của Tạ Dung Dữ, Huyền Ưng Ti vô cùng tuân thủ quy tắc, cho dù muốn kiểm tra một đứa bé cũng không đến mức phải đao to búa lớn, làm hai đứa con của Tôn Nghị Niên òa khóc như vậy.
Kỳ Minh trông thấy vẻ mặt khó hiểu của Thanh Duy, bèn giải thích: “Thiếu phu nhân hẵng khoan.”
“Thực ra hôm thẩm vấn, Ngu hầu từng nghi ngờ Tưởng Vạn Khiêm cấu kết với Lý thị che giấu manh mối, Ngu hầu có nói cho thiếu phu nhân biết không?”
Thanh Duy gật đầu: “Y nói với ta rồi.”
Hôm thẩm vấn trên công đường, Tạ Dung Dữ cố ý không thẩm vấn chung Tưởng Vạn Khiêm với Lý thị.
Nhưng mỗi khi hỏi tới chỗ quan trọng, ví dụ như vì sao bọn họ lại trốn khỏi Thượng Khê, do ai tìm cách, quan hệ giữa Tôn Nghị Niên và Tần Cảnh Sơn ra sao, lời khai của cả hai lại không quá khác nhau.
Càng lạ hơn nữa, nếu quan hệ vợ chồng giữa Lý thị và Tôn Nghị Niên thật sự bình thường chứ không hục hặc như lời đồn, thì vì sao khi Tôn Nghị Niên chết, người vợ kết tóc của ông là Lý thị lại không hề có vẻ đau buồn?
“Ngu hầu ngờ rằng Tôn Nghị Niên và Tưởng Vạn Khiêm có giao dịch.” Kỳ Minh nói.
“Giao dịch?”
“Tức là Tôn Huyện lệnh dùng tính mạng của mình để trao đổi với Tưởng Vạn Khiêm ‘lá bùa hộ mệnh’ bảo vệ người nhà mình.”
Kỳ Minh chau mày, như thể không biết phải giải thích với nàng thế nào, nghĩ một lúc lâu mới đưa ra kết luận, “Ngu hầu nói, cả Thượng Khê này chỉ có Tưởng Vạn Khiêm mới có cách bảo vệ người nhà của Tôn Huyện lệnh, cho nên Tôn Huyện lệnh đã dùng tính mạng của mình để mua một ‘lá bùa hộ mệnh’ từ Tưởng Vạn Khiêm. Ngay từ đầu Lý thị đã biết kiểu gì Tôn Huyện lệnh cũng chết nên mới không đau buồn. Và bây giờ bức thư trong kinh gửi tới đã xác nhận suy đoán của Ngu hầu, thứ mà Huyền Ưng Ti đang tìm bây giờ chính là ‘bùa hộ mệnh’ đó.”
Hắn dừng một lúc, “Thực ra thuộc hạ đến tìm thiếu phu nhân là ý của Ngu hầu, Ngu hầu bảo, chỉ cần nói ‘bùa hộ mệnh’ với thiếu phu nhân thì thiếu phu nhân tự khắc biết rõ cần tìm cái gì.”
Nhưng Thanh Duy lại không rõ.
Tiếng mắng chửi lại vọng ra từ Lạc Hà Viện, Thanh Duy đưa mắt nhìn sang, hóa ra một Huyền Ưng vệ muốn xông vào phòng của Lý thị, bị Dư Hạm chặn ngoài cửa, hai bên tiếp tục giằng co. Thanh Duy thấy vẫn còn thời gian, bèn nói với Kỳ Minh: “Ngươi cho ta biết nội dung của bức thư gửi đến từ kinh thành đi.”
***
“Bẩm Ngu Hầu, nghe nói thư từ trong kinh đã đến rồi?”
Lại nói chuyện bên này. Vệ Quyết đang ở nha môn thì nhận được tin, gấp rút cưỡi ngựa quay về trang viên, đi thẳng vào thư phòng của Tạ Dung Dữ.
Thư phòng mở rộng, Tưởng Vạn Khiêm co rúm quỳ cạnh y, ngoài Chương Lộc Chi, sau lưng chỉ có hai Huyền Ưng vệ canh giữ.
Tạ Dung Dữ “ừ” một tiếng, đưa phong thư trên bàn cho hắn, “Xem thư đi.”
Giấy viết thư là giấy trắng thượng phẩm, Vệ Quyết cầm lên, mới đầu không để ý lắm, nhưng khi mở bức thư, nhận ra chữ viết thì ánh mắt lập tức sững lại, kính cẩn cầm thư làm lễ rồi mới dám đọc tiếp – bởi lẽ bức thư này là Triệu Sơ viết gửi Tạ Dung Dữ.
Trong kho hồ sơ của châu phủ Lăng Xuyên, chi tiết liên quan đến trận huyết chiến trên núi Trúc Cố năm xưa – thậm chí là mối quan hệ giữa Tôn Nghị Niên và Tần Cảnh Sơn – đã bị xóa bỏ, nên Tạ Dung Dữ mới kính nhờ Triệu Sơ điều tra ở kinh thành, Vệ Quyết cũng biết chuyện này. Nhưng tra án rắc rối, không phải thấm vấn vài nhân chứng, tìm vài bằng chứng là xong, mà cần có thời gian xem xét một đống hồ sơ, Vệ Quyết không ngờ Quan gia lại dốc sức đến mức này.
“Thanh Chấp biểu huynh mạnh khỏe, trước đó huynh nhờ trẫm điều tra về Tôn Nghị Niên và Tần Cảnh Sơ, gần đây trẫm đã đối chiếu hồ sơ của bộ Lại và bộ Hình, có thu hoạch rồi.
Hai người Tôn, Tần sinh đầu năm Hàm Hòa, nguyên quán Thượng Khê, đậu Tú tài vào năm Chiêu Hóa. Tần Cảnh Sơ từng thi Cử nhân hai lần, vào năm Chiêu Hóa thứ tư và thứ bảy. Năm Chiêu Hóa thứ tư, Tần Cảnh Sơ rơi xuống nước trước kì thi Hương, không đậu. Năm Chiêu Hóa thứ bảy, Tần Cảnh Sơ lại ngộ sát anh họ Trương Kỳ trước kì thi Hương, dẫn lên quan phủ, bị tước công danh, từ đó không thể làm quan.
Song, trẫm và Đại Lý Tự đã kiểm tra hồ sơ, đối chiếu manh mối, phát hiện trong vụ án này đã xử sai, kẻ giết người thực sự không phải là Tần Cảnh Sơ, mà là Tôn Nghị Niên.
Tôn, Tần là bạn chí cốt. Năm Chiêu Hóa thứ bảy, cả hai cùng tham gia thi Hương. Vì Trương Kỳ liên tục vòi vĩnh Tần Cảnh Sơ chu cấp, thậm chí còn uy hiếp tính mạng nên Tôn Nghị Niên rất bất mãn về Trương Kỳ. Đêm xảy ra án mạng, Trương Kỳ uống say, gặp hai người Tôn, Tần ở bờ hồ, tiếp tục yêu cầu Tần Cảnh Sơ đưa tiền. Vì bảo vệ bạn tốt mà Tôn Nghị Niên đã sẩy tay đẩy Trương Kỳ xuống nước, hại Trương Kỳ chết đuối. Hôm sau, xác chết của Trương Kỳ được phát hiện, hai người Tôn, Tần đến nha môn đầu thú, ai cũng nhận mình là kẻ giết người. Vì lúc xảy ra án mạng không có nhân chứng, hai bên liên tục tranh nhau. Mà người xử án lúc đó, là một thôi quan họ Sầm ở nha phủ Đông An…”
Đọc đến đây, Vệ Quyết dừng lại, không khỏi ngước mắt nhìn Tạ Dung Dữ, “Thôi quan họ Sầm… Là Sầm thông phán ở phủ Đông An đang mất tích?”
Tạ Dung Dữ gật đầu.
“… Sau đó Sầm thôi quan kết án, kết luận Tần Cảnh Sơ ngộ sát, tấu lên triều đình tước công danh. Tôn Nghị Niên từng kêu oan giúp Tần Cảnh Sơ nhiều lần nhưng đều vô ích. Về sau, Tôn Nghị Niên ra sức học hành, thi đậu vào năm Chiêu hóa thứ chín, thí thủ một năm rồi về Thượng Khê làm Huyện lệnh.
Từ khi Tần Cảnh Sơ vào ngục cho đến lúc Tôn Nghị Niên thi đậu, trong quãng thời gian ấy, hồ sơ liên quan đến vụ án Trương Kỳ rơi xuống nước ở bộ Hình hay Đại Lý Tự đều đã bị tiêu hủy, chứng tỏ kẻ đứng đằng sau có thủ đoạn cao tay. Sở dĩ trẫm chắc chắn hung thủ là Tôn Nghị Niên là bởi khi lục sự ở nha môn thu xếp hồ sơ vụ án, đã sao chép lại một bản lời khai, mặc dầu lời khai gốc đã bị tiêu hủy, nhưng may mắn thay bản dự trữ vẫn còn. Lời khai được đính kèm cuối thư, biểu huynh có thể xem, qua đó không khó để nhận ra, sau khi Trương Kỳ rơi xuống nước, hai người Tôn, Tần đã đến nha môn đầu thú, mà lời khai của Tần Cảnh Sơ rất lộn xộn, mâu thuẫn chồng chất, trái lại lời khai của Tôn Nghị Niên vô cùng rõ ràng, cam đoan chính mình giết Trương Kỳ.
Mặt khác, vào tháng Năm năm Chiêu Hóa thứ mười ba, tức hai tháng trước khi Tiển Khâm Đài sập, Tôn Nghị Niên từng trình một bản công văn lên châu phủ Lăng Xuyên, bên trong có kẹp một bức thư nhận tội, nói rõ năm xưa chính mình mới là người giết Trương Kỳ.
Theo lời Tôn Nghị Niên, vào năm Chiêu Hóa thứ mười, sau khi làm Huyện lệnh Thượng Khê, lương tâm ông ta luôn bị cắn rứt, vì thế đã tìm đến Sầm Tuyết Minh xử án năm xưa, muốn rửa oan cho Tần Cảnh Sơ. Khi ấy Sầm Tuyết Minh đã thăng lên làm thông phán phủ Đông An. Ông ta nói với Tôn Nghị Niên, muốn cứu Tần Cảnh Sơ thì chỉ cần dùng bút pháp Xuân Thu làm giả lời khai, khai thành Tần Cảnh Sơ ngộ sát phòng vệ là được. Vì thương nhân Thượng Khê là Tưởng Vạn Khiêm và Tần Cảnh Sơ là người quen cũ, nên Sầm Tuyết Minh đã cùng Tôn Nghị Niên, Tưởng Vạn Khiêm làm giả lời khai, lật lại bản án.
Tần Cảnh Sơ quay về Thượng Khê, trở thành phụ tá của Tôn Nghị Niên, cho đến năm Chiêu Hóa thứ mười hai, Sầm Tuyết Minh đột ngột tìm đến hai người, yêu cầu bọn họ làm một chuyện lớn. Còn chuyện lớn thế nào thì Tôn Nghị Niên không nói rõ trong thư nhận tội, chỉ nói đến lúc này ông ta mới nhận ra, sở dĩ năm xưa Sầm Tuyết Minh xử sai chính là vì chờ điều này, muốn nắm trong tay cái thóp của nha huyện Thượng Khê, còn bản thân mình nối áo cho giặc, gieo gió gặt bão, cam tâm nhận tội chết. Trẫm cũng đính kèm bức thư nhận tội của Tôn Nghị Niên vào sau thư, biểu huynh có thể xem…”
Đọc đến đây, Vệ Quyết vội lật tới trang cuối, quả nhiên trong thư nhận tội của Tôn Nghị Niên có viết một hàng chữ bằng máu: “Tôn mỗ gieo gió gặt bão, hối hận cả đời, nếu triều đình vấn tội, cam chịu nhận cái chết”.
“… Biểu huynh nói vụ huyết án ở núi Trúc Cố có thể liên quan đến giao dịch danh sách Tiển Khâm Đài, giờ trẫm nghĩ, danh sách lên Tiển Khâm Đài chỉ có ở trong kinh, còn hai người Tôn, Tần cách xa triều đình, khó với tới đô thành. Nên trẫm suy đoán, có lẽ từ ban đầu, danh sách được núi Trúc Cố buôn bán vốn nằm trong tay Sầm Tuyết Minh. Sầm Tuyết Minh là thông phán, mà trách nhiệm của thông phán là liên lạc giữa kinh thành và địa phương; thứ hai nữa, trong thư nhận tội của Tôn Nghị Niên có thuật lại, năm Chiêu Hóa thứ mười hai, Sầm Tuyết Minh tìm ông ta làm chuyện lớn, rất có khả năng đó chính là giao dịch danh sách lên Tiển Khâm Đài.
Còn vì sao không phải Tôn Nghị Niên trực tiếp đứng ra giao dịch danh sách mà phải mượn tiếng núi Trúc Cố, trẫm không ở Lăng Xuyên nên khó có thể kiểm chứng, việc này đành phó thác lại cho biểu huynh.
Năm Chiêu Hóa thứ mười ba, ban đầu phong thư báo cáo của Tôn Nghị Niên được giao vào tay châu doãn Lăng Xuyên, nhưng châu doãn Lăng Xuyên hồi ấy là Ngụy Thăng, mà biểu huynh cũng biết Ngụy Thăng là kẻ vô trách nhiệm, cậy quyền đi lên, hắn không hề kiểm tra thư từ công văn của Tôn Nghị Niên mà cứ thế chuyển thẳng lên kinh thành. Lúc thư vừa tới kinh thành thì cũng là lúc Tiển Khâm Đài sập, các bộ trong kinh rơi vào rối loạn, cũng bỏ qua việc kiểm tra thư từ, không bị rơi vào tay giặc. May nhờ thế mà bức thư nhận tội này vẫn được giữ đến nay, có thể nói lưới trời tuy thưa song khó lọt.
Trước khi viết thư, trẫm đã phái người điều tra Sầm Tuyết Minh. Ngày trẻ hắn ta từng phục vụ quân ngũ, nhưng vì bị thương nên về sau đã đến nha môn địa phương làm quan, tính cách khôn khéo. Không lâu sau khi Tiển Khâm Đài sập, tức vào mùa Thu năm Chiêu Hóa thứ mười ba, Sầm bỗng biến mất, tới nay vẫn không có tin tức, biểu huynh đang ở Đông An, có thể điều tra kỹ kẻ này.
Phải dừng bút tại đây, chúc biểu huynh bình an, giữ gìn sức khỏe.”
Có lẽ Triệu Sơ biết Tạ Dung Dữ sẽ giao phong thư này cho Huyền Ưng vệ đọc nên câu chữ khá đơn giản, nói sao viết vậy.
Vệ Quyết xem thư xong, lại nhìn Tạ Dung Dữ, “Hôm trước Ngu hầu điều tra được Lý bổ đầu từng tiếp xúc với một viên quan phủ nha phủ Đông An, phải chăng chính là Sầm thông phán này?”
Bổ đầu chỉ là một chức danh cấp thấp, còn thông phán thường tiếp xúc trong kinh thành, dẫu phẩm cấp không cao song vẫn hơn châu phủ, Lý bổ đầu và Sầm thông phán, có thể nói một kẻ lăn lộn dưới đất, một kẻ áo gấm sang trọng nhìn trời, vậy mà lại từng có liên lạc, vì thế nên mới khiến Tạ Dung Dữ để tâm.
Theo điều tra, Lý bổ đầu đến Thượng Khê nhậm chức chính là do Sầm thông phán phái đi.
Tạ Dung Dữ nhìn Tưởng Vạn Khiêm quỳ bên dưới, “Ông có biết Sầm Tuyết Minh này không?”
Tưởng Vạn Khiêm không đọc thư, không biết Tạ Dung Dữ đã nắm rõ chân tướng năm xưa, run sợ đáp: “Từng, từng nghe đến, nhưng không quen.”
Tạ Dung Dữ thong thả nói: “Nếu có biết, vậy vì sao lần trước bổn vương thẩm vấn ông, ông không khai ra người này?”
“Bẩm, bẩm vương gia, thảo dân cứ nghĩ… người này không quan trọng, nên mới không khai.” Tưởng Vạn Khiêm cụp mắt, không dám nhìn Tạ Dung Dữ, “Hôm ấy vương gia hỏi thảo dân về danh sách mua bán ở núi Trúc Cố, thảo dân nhớ lại, Sầm đại nhân… không có liên quan nhiều đến chuyện này, nên…”
“Không liên quan nhiều?” Tạ Dung Dữ dừng một lúc, y đứng dậy, đi vòng qua bàn, dừng chân trước mặt Tưởng Vạn Khiêm, “Vậy để bổn vương đổi cách hỏi. Việc giao dịch danh sách lên Tiển Khâm Đài, vì sao lại diễn ra ở Thượng Khê, vì sao lại do một sơn tặc như Cảnh Thường đứng ra thực hiện?”
Tưởng Vạn Khiêm lắc đầu: “Thảo, thảo dân không biết.”
“Ông không biết, vậy hãy để bổn vương trả lời thay ông.” Tạ Dung Dữ thong thả nói, Thượng Khê hẻo lánh, núi bao bốn phía, dù xảy ra chuyện gì thì bên ngoài chưa chắc đã biết; thứ hai, Cảnh Thường chiếm cứ thương đạo dưới chân núi Trúc Cố, kết giao rộng rãi với các thương hộ, lúc mua bán mà qua lại với thương nhân, ắt sẽ không bị nghi ngờ; thứ ba, và cũng là điểm quan trọng nhất, trước đây khi triều đình quyết định xây dựng Tiển Khâm Đài, đồng thời đã ra lệnh diệt phỉ Lăng Xuyên, có lệnh diệt phỉ này, tương đương có quyền sinh sát sơn tặc Lăng Xuyên, đã giết được thỏ cần gì chó săn, nếu ngộ nhỡ có chuyện xảy ra, chỉ cần hai chữ ‘diệt phỉ’ là lập tức có thể diệt khẩu.
Cho nên, giao dịch danh sách ở Thượng Khê không phải là chuyện bất ngờ, Thượng Khê là nơi thiên thời địa lợi nhân hòa, là nơi được lựa chọn. Và người lựa chọn Thượng Khê chính là Sầm Tuyết Minh, chuyện này ông không biết ư?”
Tưởng Vạn Khiêm nuốt nước bọt, không dám trả lời.
Tạ Dung Dữ nói tiếp: “Sầm Tuyết Minh lợi dụng vụ án sai của hai người Tôn Tần để nắm thóp bọn họ, ép bọn họ dụ dỗ Cảnh Thường, bán danh sách lên Tiển Khâm Đài ở núi Trúc Cố. Còn ông, ngay từ đầu đã tham gia vào án sai này, không có chuyện ông không biết gì về việc Sầm Tuyết Minh đã làm. E rằng năm xưa ông khổ sở bức bách Tần Cảnh Sơn không hẳn vì muốn nhờ sư gia tìm tiền đồ cho Phương Lưu. Mà sự thực trái ngược hoàn toàn, ông biết Sầm Tuyết Minh chọn trúng núi Trúc Cố, nên mới hi vọng Phương Lưu có được tên trong danh sách lên đài, đáng tiếc danh sách hữu hạn; mà Tần Cảnh Sơ niệm tình ơn cứu giúp của ông, cũng khổ sở khuyên ông đừng giao du với kẻ xấu, nhưng ông không nghe, cầm một trăm nghìn lượng bạc trắng, còn nhờ Tần Cảnh Sơ dẫn ông lên núi để mua danh sách.”
Một trăm nghìn lượng bạc không phải con số nhỏ, dù Tưởng Vạn Khiêm là phú thương cũng khó mà có được chỉ trong vài ngày ngắn ngủi.
Hôm ấy, Tạ Dung Dữ nghe Tưởng Vạn Khiêm nói mình có được bạc trong bảy ngày thì đã cảm thấy ông ta che giấu điều gì đó, nhưng y không nói ra, mãi tới hôm nay mới vạch trần.
Tưởng Vạn Khiêm lau mồ hôi trên trán, ông ta tưởng lý do mình đưa ra ngày hôm trước đã rất chặt chẽ, chẳng ngờ đến một chi tiết nhỏ như thế mà Tiểu Chiêu vương cũng không bỏ qua.
“Bổn vương hỏi ông, khi Tiển Khâm Đài sập, đến mấy trăm sơn tặc trên núi Trúc Cố còn bị diệt khẩu, còn ông – một kẻ đã giao dịch mua bán, vì sao bọn chúng lại bỏ qua cho ông?”
“Bổn vương cũng trả lời thay ông.” Tạ Dung Dữ nói, “Vì bọn chúng không thể giết ông, ông là phụ thân của sĩ tử lên đài. Sau khi Tiển Khâm Đài sập, cái chết của các sĩ tử trở thành đề tài khiến dư luận xôn xao, nếu lúc đó ông chết sẽ rất dễ bị kẻ khác nghi ngờ, và cũng tương tự, lúc ấy sóng gió ở Lăng Xuyên đang lớn, Tôn Nghị Niên thân là Huyện lệnh Thượng Khê, những kẻ đó cũng không tiện diệt khẩu ông ta.”
“Câu hỏi thứ ba, khó khăn lắm ông mới chi ra được một trăm nghìn vạn lượng mua suất lên đài cho Phương Lưu, về sau cả người lần của đều mất, ngoài bất an, có thật ông không hề oán giận? Sau khi Tiển Khâm Đài sập, ông đã theo Tôn Nghị Niên và Tần Cảnh Sơ đến Đông An, có thật chỉ vì muốn hỏi thăm rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, chứ không phải hỏi Sầm Tuyết Minh cách giải quyết?”
Tưởng Vạn Khiêm run lên bần bật, nghe đến đây, lấy hết dũng khí ngước mắt nhìn Tạ Dung Dữ.
Tạ Dung Dữ cũng nhìn ông ta với ánh mắt lạnh thấu xương lẫn huy hiếp, con tim Tưởng Vạn Khiêm chợt hẫng một nhịp, lời cứ thế bật thốt, “Vương, vương gia nói đúng… lúc ấy thảo dân… đúng là đi tìm Sầm đại nhân hỏi cách.”
Nếu kiểm tra kỹ, lời khai của Tưởng Vạn Khiêm ngày hôm đó có rất nhiều chi tiết bất hợp lý.
Thí dụ như sau khi Tiển Khâm Đài sập, vì sao Tưởng Vạn Khiêm vừa chạy tới Đông An đã lập tức quay về?
Rồi Tưởng Vạn Khiêm thân là thân phụ, sau khi Phương Lưu mất, vì sao ông ta có thể che giấu nỗi đau mất con mấy năm liền?
Lại như, trong vụ án Thượng Khê, có người chết có người còn sống, có kẻ mất tích có kẻ bị trừ khử, vì sao Tưởng Vạn Khiêm vẫn sống tốt?
Tạ Dung Dữ nói: “Kẻ thực sự buôn bán danh sách không phải Sầm Tuyết Minh, mà là quan trên của ông ta, ắt hẳn là nhân vật trong triều. Có điều ông là phụ thân của sĩ tử lên đài, trong tình huống ngày đó, vị đại nhân kia tạm thời không thể giết ông, nhưng phải làm gì để ông sống đây? Kẻ đó phải bồi thường cho ông. Ông đến Đông An hỏi ý Sầm Tuyết Minh, không lâu sau Sầm Tuyết Minh đích thân đến Thượng Khê, ắt hẳn đem đến cho ông thứ bồi thường từ vị đại nhân nọ.”
Tạ Dung Dữ cúi xuống, nhìn Tưởng Vạn Khiêm chòng chọc, “Hiện tại sự thật đã rõ, danh sách Tiển Khâm Đài do đại nhân trong triều tuồn ra, Sầm Tuyết Minh là cấp dưới của hắn, chính Sầm Tuyết Minh đã chọn Thượng Khê cho vị đại nhân kia, tìm cách thực hiện chuyện buôn bán. Trong đó, Hai người Tôn Tần là con rối Thượng Khê mà Sầm Tuyết Minh khống chế, Cảnh Thường núi Trúc Cố là thứ công cụ có thể vứt bỏ bất cứ lúc nào, còn ông là bên mua. Về sau Tiển Khâm Đài sập, ông tới Đông An hỏi ý Sầm Tuyết Minh, Sầm Tuyết Minh làm theo ý của vị đại nhân kia bồi thường cho ông, nhưng không lâu sau ông ta lại mất tích, vì sao?
Bởi lẽ nếu bổn vương là đại nhân kia, kẻ tiếp theo bổn vương sẽ giết chính là Sầm Tuyết Minh. Danh sách mua bán, bao gồm toàn bộ núi Trúc Cố cũng là do ông ta lên kế hoạch, ông ta đã biết quá nhiều, ông ta biết bổn vương là ai, càng biết bổn vương làm gì, nếu giết ông ta, cắt đứt mọi liên hệ giữa bổn vương và các ngươi, thì những người như ông, như Tần Cảnh Sơn, chỉ biết hắn ta chứ không biết bổn vương, bổn vương có thể an nhàn yên thân. Đó chính là nguyên nhân Sầm Tuyết Minh mất tích.”
Chỉ là chưa chắc Sầm Tuyết Minh đã bị diệt khẩu, ở Thượng Khê vẫn còn nhiều người sống biết chuyện, cần phải có người để mắt đến, việc cuối cùng Sầm Tuyết Minh làm là điều Lý bổ đầu tới Thượng Khê, là một nanh vuốt khác của vị đại nhân nọ. Từ đấy trở đi, Thượng Khê nằm trong tay Lý bổ đầu, còn Sầm Tuyết Minh cũng đoán bản thân đã hết tác dụng, không lâu sau sẽ bị diệt khẩu, nên ông ta buộc phải mất tích, không rõ sinh tử, cũng không bao giờ xuất hiện nữa.
Vừa thấy Thanh Duy, Dư Hạm lập tức la lên: “Cô đến đúng lúc lắm!” Nàng ta cầm khăn chỉ thẳng vào Huyền Ưng Ti, “Không phải cô quen biết với vị vương gia kìa hả? Mau tố cáo bọn họ với vương gia đi, đúng là không coi vương pháp ra gì, bắt nạt hà hiếp trẻ nhỏ vô tội!”
Thanh Duy chẳng buồn để ý, chỉ hỏi Huyền Ưng vệ trước mắt, “Đã lục soát xong chưa?”
Huyền Ưng vệ trong sân vái Thanh Duy, đáp: “Vẫn chưa ạ, còn có sương phòng của Lý thị và hai đứa bé là chưa lục soát.”
Thanh Duy bèn nói: “Không cần lục soát nữa, trước khi chết Tôn Nghị Niên đã từng cho Dư thị một rương vàng, lấy đi là được.”
“… Dựa vào đâu mà lấy vàng của ta?” Dư Hạm ngớ ra, sau đó giậm chân thật mạnh, chỉ vào Thanh Duy, “Thế mà ta còn coi cô là người tốt, đến để giúp ta, ban đầu ta tốt bụng thu nhận cô, cô… cô lừa Tú nhi của ta đi ta còn chưa tính, giờ cô lại lấy oán trả ơn!”
Thanh Duy nói: “Ta đang giúp cô đấy tiểu phu nhân à, tội danh của Tôn huyện lệnh đã định, hiện đã tấu lên triều đình, chỉ chờ xử liên đới. Mà cô chỉ là thiếp thất ông ta nuôi bên ngoài, không dính dáng bao nhiêu, lấy đi một rương vàng coi như cô có lòng nhận tội, về sau sẽ là người tự do.”
Dư Hạm không tin nàng.
Lý thị nói lão gia đã chết, tức không có đối chứng, bọn họ sẽ không bị dính dáng tội danh nào cả.
“Cô muốn lấy vàng, sao không lấy của bà ta luôn?” Dư Hạm chỉ vào Lý thị, lạnh lùng hỏi, “Lão gia cho mỗi người bọn ta một rương vàng, cô chỉ lấy của mỗi ta thì sau này ta biết sống sao?”
Thanh Duy nhìn Lý thị, Lý thị không dám nhìn nàng, kéo hai đứa con nấp vào trong góc phòng.
“Không cần lấy vàng của bà ta, bởi lẽ tội danh của bà ấy không nhẹ đến mức một rương vàng là có thể đền được, lừa gạt mệnh quan triều đình là tội tày trời, huống hồ các người tưởng Tôn Nghị Niên chết là sẽ không có đối chứng à?” Thanh Duy dừng một lúc, “Tưởng Vạn Khiêm đã khai hết rồi.”
***
Đến tình tiết quan trọng nhất thì Tưởng Vạn Khiêm lại cứng miệng: “Thảo dân, thảo dân không biết vương gia nói bùa hộ mệnh gì cả.”
Tạ Dung Dữ bảo, “Nếu ông không có bùa hộ mệnh, vậy sau khi Phương Lưu chết, ông chạy tới Đông An tìm Sầm Tuyết Minh làm gì?”
“Sầm, Sầm đại nhân chỉ cho thảo dân một khoản tiền, nói vị đại nhân kia sẽ không hại thảo dân. Lúc đó… thảo dân đã suy sụp, nghĩ bụng chỉ cần có thể giữ được mạng, giữ được gốc rễ là đủ, không có yêu cầu gì khác.”
Tạ Dung Dữ lại lạnh lùng cất tiếng: “Là ai bảo ông, rằng ông có thể giữ được mạng sống?”
***
“Bà ta có sống được hay không, có bị dính líu hay không, khó nói lắm.” Thanh Duy lại nhìn Lý thị, hờ hững bảo, “Bao nhiêu sơn tặc núi Trúc Cố đã chết? Tướng quân diệt phỉ năm xưa đã không còn, dĩ nhiên món nợ này sẽ đổ lên đầu Tôn Nghị Niên. Hai người cũng biết sơn tặc oan khuất thế nào rồi đấy, lấp một hai cái mạng còn lâu mới đủ. Bà ta mà chết, ta lấy vàng của bà ta làm gì, người không còn, dĩ nhiên vàng sẽ được nộp lên triều đình.”
“Cô, cô đừng có hàm hồ.” Lý thị lên tiếng, “Lão gia nói rồi, ông ấy bị ép phải lên núi Trúc Cố, ông ấy rất hối hận, chuyện này vốn không phải là mong muốn của ông ấy, càng không liên quan gì tới ta, đàn bà như ta cớ gì phải bỏ mạng vì vậy?”
Đánh rắn phải đánh dập đầu, Tạ Dung Dữ nói, “Ông có biết tội sống mà bổn vương nói là như thế nào không?”
Đột nhiên giọng của Tạ Dung Dữ khiến Tưởng Vạn Khiêm trở nên hoảng hốt, “Tội sống… như thế nào?”
“Triều đình đã tìm được thư nhận tội của Tôn Nghị Niên, không có ‘bùa hộ mệnh’, chỉ dựa vào nhân chứng là ông Cát cùng với lời khai của ông, vẫn có thể chứng thực được tội danh mua bán bất hợp pháp của ông, và với tội danh đó…” Tạ Dung Dữ dừng một lúc, gằn từng chữ, “Trăm năm sau, hễ là con cháu Tương thị ở Thượng Khê, suốt đời không được làm quan.”
***
“Tiểu phu nhân.” Thanh Duy nói, “Nếu cô thực sự muốn giúp chủ mẫu của mình, vậy nghĩ xem nếu tương lai không tiền không bạc, làm sao chăm sóc được đại gia đình đây.”
Tình vợ chồng giữa Lý thị và Tôn Nghị Niên đã hao mòn, nhưng vào khoảnh khắc nguy cấp, Lý thị vẫn nguyện tin ông ta, thậm chí không tiếc rời bỏ cố hương đến nơi xa xôi, chẳng phải vì hai đứa con nhỏ ư?
Đánh rắn phải đánh dập đầu, Thanh Duy nói: “Bởi nếu Lý thị mà chết, vẫn còn hai đứa nhỏ cần cô chăm sóc, nếu cô không có bản lĩnh, e rằng chúng sẽ phải chịu khổ theo cô mà thôi.”
Lý thị nghe thế thì tái mặt, Dư Hạm ngẩn ra: “Đâu phải bà ấy đã giết sơn tặc núi Trúc Cố, một chút, một chút cũng không dính líu đến bà ấy… Có cách nào bảo vệ bà ấy không?”
***
Tưởng Vạn Khiêm ngồi phịch xuống đất, “Tôi vất vả một đời, cũng là vì… vì danh tiếng Tưởng gia…”
***
“Có.” Thanh Duy nói, “Chỉ cần tiểu phu nhân nói sự thật cho ta biết, ta tất sẽ nghĩ cách giúp tiểu phu nhân.”
Nàng nhìn thẳng Dư Hạm, “Tiểu phu nhân biết ta có bản lĩnh ấy mà.”
Dư Hạm cũng nhìn Thanh Duy.
Nàng ấy có không? Có, ngày trước khi ở Thượng Khê, chỉ có mình nàng ấy không sợ ma; Tú nhi cũng thích nàng ấy, tự nguyện đi theo nàng ấy; rồi còn cả vị vương gia có bề ngoài như trích tiên nữa, lúc nào cũng dẫn nàng ấy theo, rất coi trọng nàng ấy.
“Được rồi.” Dư Hạm cắn răng, bước về phía cô con gái ba tuổi sau lưng Lý thị, “Giấu làm gì nữa, đưa cho nàng ấy đi!”
Nhưng Lý thị lại xông lên ngăn cản, “Không được! Lão gia đã nói rồi, chỉ có nó mới có thể bảo vệ được tính mạng chúng ta!”
“Lão gia đã chết rồi, bà còn tin ông ấy làm gì! Hơn nữa dù đại quan trong kinh có bỏ qua cho mẹ con bà, liệu vương gia ở trang viên này có bỏ qua không?” Dư Hạm lấy ra một vật từ xiêm y của cô bé, ném cái *cạch* xuống đất, “Lấy nó đi!”
***
“Tôi nói, tôi nói…” Tưởng Vạn Khiêm lẩm bẩm, “Sầm Tuyết Minh ông ta… cho tôi hai tấm thẻ gỗ.”
***
Thanh Duy nhìn vật dưới đất, là một tấm thẻ gỗ có khắc hoa văn trông khá phức tạp, nàng nhặt lên nhìn, “Đây là gì?”
***
“Thẻ gỗ?”
“Là thẻ gỗ.” Tưởng Vạn Khiêm đờ đẫn gật đầu, “Hai tấm thẻ dùng để khắc danh sách sĩ tử lên đài, giống hệt thứ Phương Lưu đã cầm lên đài ngày trước.”
“Sầm Tuyết Minh nói, vị đại nhân kia hứa với tôi, mấy năm sau, chắc chắn sẽ để Tiển Khâm Đài được xây lại, còn tôi mất con vì Tiển Khâm Đài đã sập, hôm khác sẽ bồi thường gấp đôi cho tôi, dùng hai tấm thẻ gỗ của sĩ tử lên đài làm tin.”