Chuyển ngữ: Khu rừng đom đóm
Cả đêm sấm to làm Khương Dao bị mất thính lực tạm thời, phải mấy ngày sau mới đỡ.
Vì Khương Dao không nghe rõ lời anh nói nên vẻ mặt của Thần hơi giận dữ. Khương Dao cũng không dám mở miệng nhờ anh hồi phục giúp cô.
Tính khí xấu của Thần lại được chứng minh lần nữa, hầy.
…
Bà cụ Trác Ba nhận ra sự bất thường của Khương Dao, kéo cô đến gặp trưởng thôn, hai người huyên thuyên một hồi, trưởng thôn mới hỏi Khương Dao: “Tai cô bị sao vậy?” Ông chỉ chỉ vào lỗ tai Khương Dao.
Tuy Khương Dao không nghe thấy, nhưng từ hành động của thôn trưởng và vẻ mặt của bà lão Trác Ba, cô biết họ đang nói đến đôi tai cô. Khương Dao biết việc bị điếc không thể giấu được, đành tìm một cái cớ, nói rằng vài ngày sau sẽ khỏi.
Trưởng thôn không hiểu một số thuật ngữ y học mà Khương Dao nói, nhưng khi nghe rằng sẽ khỏi, ông cũng không hỏi gì thêm. Ông quay sang giải thích cho bà lão Trác Ba, bà cụ giữ chặt tay Khương Dao và kéo cô đi về.
Khương Dao đã quen với động tác thô lỗ của bà cụ, chỉ có thể vừa đi theo sau bà vừa bất đắc dĩ thở dài: “Bà đi chậm lại chút ạ!”
Hai người trở lại con đập, bà lão Trác Ba cúi đầu vái bức tượng, lầm bẩm nói một câu.
Khương Dao đứng bên cạnh bà, cô cũng quen với việc bà lão hay nói câu này. Tuy cô không biết ý nghĩa, nhưng lại thường xuyên nghe mọi người dân trong làng khi đi qua tượng đá đều sẽ nói với tượng đá. Khương Dao đoán nó cũng tương tự như “a di đà phật” hoặc “amen” gì đó.
Nói xong, bà lão Trác Ba không đi ngay mà khom người vái tượng đá, rồi lại nói thêm một lúc. Khương Dao đoán bà đang cầu phúc cho mình.
Khương Dao nhớ lại chuyện tối qua, tuy cô không hiểu sao Thần lại đưa cô ngồi lên con Pegasus, nhưng cô thật sự đã cực kì chấn động. Chuyện kì quái như vậy có lẽ chỉ xảy ra một lần duy nhất trong đời. Rất nhiều cảm hứng sáng tác tuôn trào trong Khương Dao, cô định sẽ vẽ tất cả chúng ra giấy.
***
Sẩm tối, bà lão Trác Ba đột nhiên đưa cho cô bộ trang phục bản địa, Khương Dao không hiểu. Lúc này trưởng thôn đi tới, ông dùng vốn liếng chữ Hán ít ỏi của mình để giải thích nguyên nhân cho Khương Dao.
Ngày mai là lễ hội hằng năm để thờ cúng các vị thần của làng, không gia đình nào được để người trong nhà, tất cả phải đi thăm núi. Khương Dao cũng không thể ngoại lệ.
Ngày hôm sau có hai hoạt động, một là thăm núi, hai là bái thần. Việc thờ bái thần, Khương Dao không thể tham gia.
Khương Dao tỏ ra hiểu ý, quyết định ngày mai sẽ lên núi cùng mọi người, đến khi dân làng cúng bái thần linh thì cô sẽ tìm một chỗ để vẽ tranh.
Sáng sớm hôm sau, Khương Dao thay quần áo xong xuôi, vừa bước ra khỏi cửa đã giật mình bởi khung cảnh náo nhiệt bên ngoài. Tất cả dân làng đều thay những bộ đồ trang trọng nhất, khua chiêng gõ trống, huơ tay múa chân, đám trẻ cũng hò hét đuổi theo.
Nhưng chuyện này đến tai Khương Dao lại chẳng có tiếng động nào, cô chỉ nhìn thấy người ta há to miệng, tất cả đều đang hò hét.
Khương Dao vừa ra khỏi cửa đã bị bà lão Trác Ba giữ lấy, bà cụ nhờ một cô gái trẻ đẹp để ý đến cô. Có vẻ cô gái này cũng trạc tuổi Khương Dao, cô ấy có làn da ngăm đen khỏe khoắn, đôi mắt trong vắt như làn suối, khi cười tươi lộ hàm răng trắng phớ. Cô nàng chẳng ngại ngùng nắm ngay tay Khương Dao, kéo cô hòa vào giữa hàng ngũ.
Cô ấy thân thiết bá vai Khương Dao, ý bảo cô cũng nắm vai người đằng trước như vậy. Người phụ nữ đằng trước quay lại, cười với cô rồi nhún nhún hai vai.
Khương Dao đặt tay lên, cảm giác phấn khích khó tả. Cô chưa từng tham gia hoạt động thế này, mặc dù không thể nghe thấy tiếng, nhưng hình ảnh tĩnh lại có tác động mạnh hơn, như thể cô đang tham dự một vở kịch câm vậy.
Cả trai lẫn gái, già trẻ lớn bé đều cùng nhau xếp thành một con rồng dài ngoằn ngoèo, mọi người đứng vòng xung quanh tượng đá, di chuyển theo nhịp điệu, vừa đi vừa hò hét. Khương Dao nhìn khẩu hình của bọn họ, có lẽ đó là câu mà bọn họ thường nói với tượng đá.
Sau khi nhảy trên con đập nửa giờ, trưởng thôn dẫn đầu, đoàn người theo sau chậm rãi lên núi. Đám người đi dọc theo sườn núi khúc khủyu, Khương Dao đi đến lưng chừng núi thì thấy phía trước và sau là đoàn người quanh co. Mọi người xếp thành vòng tròn quanh thôn, cây cối ven đường được trang trí bằng đủ loại dây màu.
Dây màu là để cầu phúc, bà lão Trác Ba cho Khương Dao ba dây.
Khương Dao vốn không định nhận vì cô không tin vào thần linh của bọn họ, song bị bầu không khí nơi đây tác động nên không cưỡng được cũng tiến đến treo lên. Cô nghĩ: Hy vọng bà Trác Ba bình an, mạnh khỏe; hy vọng người dân ở đây luôn sung sướng, hạnh phúc thế này. Bỗng cô khựng lại một chút, cuối cùng thầm nghĩ: Hy vọng Thần sớm ngày mạnh mẽ hơn.
Ngoài ra, cô còn muốn lên mạng.
Ôi, giấy tờ từ khắp nơi trên thế giới còn đang chờ cô phê duyệt đấy.
Khi dân làng đi quanh núi vòng thứ hai, Khương Dao nhìn thấy Thần đứng trên tượng đá. Khương Dao ngạc nhiên nhìn anh, sau đó lập tức nhìn phản ứng của mọi người xung quanh—
Mọi người xung quanh không có gì bất thường, bọn họ vẫn hát và treo dải lụa rực rỡ. Rõ ràng họ đều đang nhìn về phía tượng đá nhưng hình như không trông thấy gì cả, ánh mắt vô cùng tự nhiên.
Khương Dao nhớ đến lần trước Thần đứng sau đám trẻ xem đàn kiến. Thế là thật sự chỉ có mình cô nhìn thấy anh thôi sao?
Người đàn ông lặng lẽ đứng trên tượng đá, vẻ mặt trầm ngâm, ánh mắt nặng nề, tựa như một tác phẩm điêu khắc sống.
Khương Dao đi vòng qua tượng đá lần hai, cô không dám ngẩng đầu lên, mắt dán lên người ông già đang chơi nhạc cụ.
Ai cũng có vẻ mặt tươi vui, mỉm cười nhìn người bạn đồng hành, họ sẽ đánh chiêng mạnh hơn một chút, người thổi kèn cũng thổi lớn hơn, đến nỗi nổi đầy gân xanh. Nụ cười của mấy người phía sau lại càng rạng rỡ hơn nữa…
Khương Dao cảm thấy gì đó nên quay đều nhìn về phía tượng đá.
Anh vẫn đứng thẳng lưng trên bức tượng, uy nghiêm như thường, nét mặt không buồn không vui.
Ánh mắt Khương Dao khẽ lay động.
Đây là vật hiến tế cho thần niềm vui, nhưng thần lại có vẻ không vui nhỉ.
Nếu thần thật sự tồn tại, thì các thần khác đâu? Tại sao cô không nhìn thấy các thần khác? Thần và thần không giúp đỡ nhau ư?
Thần cũng cô đơn sao?
Không biết tại sao Khương Dao lại nghĩ đến điều này.
Người đàn ông đứng trên bức tượng vẫn trang nghiêm, cao quý như vậy, nhưng cô lại cảm thấy anh rất cô đơn. Cô lắc đầu, bỏ suy nghĩ này đi… Khương Dao, đây không phải là chuyện mày nên nghĩ.
…
Đi thăm núi xong, Khương Dao cầm dụng cụ vẽ tranh rời khỏi thôn rồi tìm một nơi khô ráo ngồi xuống, bắt đầu vẽ những bức tranh của cô. Từ khi tai cô không nghe được bất cứ âm thanh nào thì mắt lại trở nên tinh tường hơn, cô nhận ra những thứ tinh tế vi diệu mà trước đây ít ai để ý. Khương Dao đắm chìm trong vẽ, nhất thời không biết mình đang ở đâu.
Chẳng biết Thần đã đứng sau cô từ lúc nào, nhìn vũ trụ bao la dần hình thành dưới ngòi bút của cô.
Đây là thế giới mà tối qua cô đã thấy sao?
Người đàn ông nhìn chằm chằm vào bức vẽ, cảm thấy đêm đen dưới ngòi bút của Khương Dao vừa quen thuộc, vừa lạ lẫm. Màn đêm trong mắt anh, tối tăm, tĩnh lặng, mênh mông và vô tận. Vầng trăng là một màu trắng lạnh, tiếng sấm và tia chớp vang lên không dứt, tựa như bất mãn với đêm tối yên tĩnh này.
Không trung mà Khương Dao vẽ nên lại là một màu ấm áp. Ánh trăng dịu dàng như ngọc, trong đêm tối có những dây mây mềm mại, vì sao lấp lánh đầy trời, ngân hà rực rỡ. Pegasus chở đám mây chạy đến vầng trăng như là chạy đến thứ ánh sáng gì đó.
Dưới những nét vẽ ấy, màn đêm trở nên lộng lẫy và thơ mộng động lòng người.
Tay Khương Dao đang vẽ đến dây cương thì tạm dừng. Cái thứ kêu leng keng trên dây cương là gì? Cái lắc tròn? Chuông gió? Hoa lan? Hay là thỏi vàng?
“Tường vân*.”
*Tường vân: tức chỉ đám mây mang lại sự tốt lành. Các vị tiên nhân thường cưỡi trên những đám mây ngũ sắc.
Khương Dao nhắm hai mắt, cố gắng nhớ lại đó là cái gì? Lúc đó cô cảm thấy nó tròn vo, rất đáng yêu.
Thần định mở miệng nhưng nhớ ra cô không nghe được.
Khương Dao gõ gõ lên bảng vẽ, gửi hy vọng vào một tia cảm hứng đến bất chợt. Sẽ nhớ ra thôi, thư giãn nào… Cô thở một hơi, nhắm mắt ngồi thiền.
Nghĩ một hồi, suy nghĩ của Khương Dao dần trôi dạt lên trời xanh.
Cô nói với ba mẹ đi công tác nửa tháng, thế nên nhiều lắm cô chỉ có thể ở đây nửa tháng thôi, sau nửa tháng là cô phải về rồi. Không biết Thần còn muốn ở đây tu dưỡng bao lâu nữa?!
Cô ở lại đây có thật sự giúp được anh không? Khương Dao không có cảm giác gì. Cô không thấy Thần tốt hơn được bao nhiêu.
Cũng không biết tiến độ làm việc trong studio thế nào rồi, hy vọng những thứ do cô vẽ trong hợp đồng có thể sử dụng được.
Về rồi nhất định phải có lẩu, đồ nướng BBQ, thỏ kho tiêu, cá hấp, lẩu ếch cay, ruột già, lòng bò xào xếp hàng dài… Khương Dao nuốt nước miếng.
Ôi, mong chờ quá!
Khương Dao dần chìm đắm trong mường tượng về đồ ăn ngon, ngày càng khó kiềm chế.
Thần đứng phía sau, yên lặng chờ cô nhớ lại.
Một tiếng sau, anh chờ đến độ thấy Khương Dao rỏ dãi tỏng tỏng.
Ầm ầm—
Vẻ mặt Khương Dao vẫn thèm thuồng vậy, hơi tiếc nuối lau mép. Chỉ có thể nghĩ đến mà không thể ăn, khổ quá.
Ồ, cô không nghe được.
Người đàn ông vô cảm giơ tay lên, một chút ánh sáng rơi xuống ót cô. Cả người Khương Dao run run, đột nhiên cảm thấy xung quanh ầm ĩ. Xa xa là tiếng nhạc ồn ào và lời hát khó hiểu, từng cơn gió thổi qua, tiếng chim và côn trùng cất vang rợp rừng. Cô hơi cựa người, quần áo phát ra tiếng sột soạt.
Khương Dao ngạc nhiên. Tự nhiên khỏi rồi?
Ầm ầm—
Sấm sét tạo ra âm thanh vang dội.
Khương Dao giật bắn— sao tự dưng lại có sấm sét? Cô quay đầu, thấy Thần không hề tức giận nhưng lại rất uy nghiêm, đứng thẳng người sau lưng cô. Khương Dao run bần bật. Sao, sao thế không biết?
“Tường vân.”
Hở?
Khương Dao nhìn anh, không hiểu anh đang nói gì.
“Trên dây cương là tường vân.”
Ồ.
Khương Dao gật đầu một cách cứng ngắc, xoay người viết hai chữ “tường vân”, trong lòng thầm nhủ: Chuyện này có gì mà tức giận…
“Em không chuyên tâm vẽ tranh.”
Khương Dao: “…” Tùy tiện đọc suy nghĩ của người khác là không lịch sự đâu nha.
Khương Dao lại nói thầm: Vẽ tranh vốn là việc đòi hỏi phải suy nghĩ, làm gì có ai vẽ được trong một nét bút chứ…
“Em nghĩ đến chuyện ăn uống.”
Mặt Khương Dao đỏ rần, ngang ngạnh mấp máy môi định nói câu gì, cuối cùng cũng… thôi được rồi, đúng là cô muốn ăn thật. Cô tức giận xóa hai chữ “tường vân” đi, bắt đầu vẽ tường vân, vừa vẽ vừa nói: “Thần có thể nghe được tiếng lòng của mỗi người sao?”
“Miễn là muốn.”
Khương Dao thở dài, âm thầm lên án: “Vậy nên nếu không có việc gì thì thần sẽ không nghe trộm tiếng lòng của người khác hả?”
Người phía sau không đáp.
Khương Dao lại tiếp tục thở dài: “Thần tôn kính kính yêu ơi, ngài làm như vậy khiến đứa nhỏ này cảm thấy bất an đấy.”
Thần im lặng không nói.
“Chúng ta nói lý một chút nhé…” Khương Dao rửa bút vẽ, miệng và tay không ngừng nghỉ, “Đôi khi có vài suy nghĩ chợt nảy ra, con người ta không thể kiểm soát được, cũng chỉ là nghĩ thôi, hoàn toàn không thành sự thật. Nếu như vậy mà bị kết tội thì oan ức lắm…”
Phía sau vẫn không hề lên tiếng.
“Nếu ngài đã không nghe tiếng lòng của người khác…” Giọng điệu của Khương Dao quay phắt sang nịnh nọt, “Ngài cũng có thể không cần phải nghe tiếng lòng của tôi, rất nhàm chán, thật sự đấy!”
“Ngài thấy sao?” Khương Dao dè dặt thử hỏi.
Không hề trả lời.
Khương Dao nhẹ nhàng ngoái lại—đằng sau không một bóng người.
Mẹ nó chứ.
Những đám mây phía chân trời trở nên lộng lẫy, muôn màu, thơ mộng như chốn thần tiên.
Âm nhạc ở thôn dần ngừng lại, mọi người ngẩn ngơ ngắm nhìn vẻ đẹp lạ lùng nơi chân trời.
Khương Dao nghe thấy tiếng xì xào quen thuộc, những người trong thôn dùng ngôn ngữ cổ nói: “Thần Mặt Trời, ngày đêm đi không ngừng nghỉ, cực khổ vì thế gian…”
Theo truyền thuyết, đây là điều thần đáp lại mỗi khi nghe tiếng ca hát của người phàm.