Nếu Đời Anh Vắng Em

Chương 14: Valentine




Nếu hai người yêu nhau, đoạn kết sẽ không thể nào có hậu.
Ernest HEMINGWAY
Ngày hôm sau
22 tháng Mười hai
Trên bầu trời Đại Tây Dương
- Ông có muốn dùng chút sâm banh không?
Ở độ cao hơn haimươi dặm so với mặt đất, chuyến bay 714 tiếp tục cuộc hành trình tới San Francisco, lao vút đi như con chim bạc trên biển mây.
Martin từ chối lời mời của nữ tiếp viên. Xung quanh anh, các hành khách khoang hạng nhất đang thưởng thức món gan ngỗng béo với quả vả chín phết trên bánh mì tẩm gia vị. Bên trái anh, Cô Ho, vẫn luôn được anh chàng vệ sĩ sumo tháp tùng, anh ta đang nhấp từng ngụm nhỏ ly Martini Bianco.
- Anh nói rất chí lý, cô thừa nhận và rút từ túi nhựa trong ra một phong bì bằng bìa.
Martin nhìn cái túi giấy gấp nếp. Nó được đóng dấu FBI kèm theo hàng chữ Tối mật.
- Cô đã nhận được kết quả phân tích dấu vân tay của Archibald?
Cô gật đầu và đưa anh xem tập hồ sơ.
- Giới thiệu với anh Joseph A. Blackwell, từng bị giam giữ tại nhà tù San Quentin cho tới năm 1981, mã số tù nhân IB070779.
Nhìn tập hồ sơ đặt trước mặt, Martin cảm thấy một luồng điện phấn khích chạy dọc sống lưng. Anh quyết định mở phong bì và trong mắt anh lóe lên một tia sáng.
° ° °
Bức ảnh được chụp tại đồn cảnh sát thành phố San Francisco khi một tên Joseph Archibald Blackwell nào đó bị bắt giữ vào đêm ngày 23 rạng sáng ngày 24 tháng Mười hai năm 1975, với tội danh bị cáo buộc "gây tương tích có thể đe dọa tới tính mạng cho người khác". Tấm ảnh đen trắng in hình một người đàn ông khoảng ba chục tuổi, đôi mắt thâm quầng để lộ một nỗi đau khổ đang vò xé tâm can.
Một đoạn lý lịch ngắn tóm tắt hành trình của nghi can.
Sinh ra tại Fountainbridge, một khu phố bình dân thuộc Édimbourg, mẹ là thợ may và bố là một họa sĩ chưa bán nổi bức tranh nào. Vốn là học sinh có năng khiếu nhưng nghịch ngợm, hắn đã bỏ học năm mười bốn tuổi để đi làm việc vặt: thợ xây, thợ máy, thợ sơn quan tài, chân chạy vặt trong trường Đại học Mỹ thuật Édimbourg.
Năm hai mươi tuổi, hắn gia nhập Không lực Hoàng Gia, ban đầu chỉ là một thợ máy song về sau cũng thi đậu bằng phi công. Năm năm sau đó, hắn đã trở thành phi công lái máy bay cho Hiệp hội Bác sĩ không trung phụ trách sơ tán những người bị thương nặng ở miền Trung nước Úc. Nhiều tấm ảnh chụp trong thời kỳ này cho thấy một gương mặt dãi dầu sương gió đứng cạnh một chiếc xe Cessna cũ rích, giữa những đám cây bụi trên đất Úc.
Rồi một loạt những bức ảnh cho thấy hắn đã từng tham gia vào rất nhiều chiến dịch cứu trợ nhân đạo của một hiệp hội khác, Những Đôi cánh hy vọng: đưa trẻ em đi cấp cứu tại Biafra, sơ tán những người tị nạn khỏi các ổ bệnh dịch, phân phát thuốc tại Nicaragua, chuyên chở các đội cứu trợ sau một trận động đất tại Sicile... Rất nhiều cầu nối bằng đường hàng không chở những niềm hy vọng kiểu như vậy. Chỉ vài giọt nước trên miệng lò lửa. Có những giọt chẳng thay đổi được gì. Có những giọt có thể thay đổi tất cả...
Martin gần như bị thôi miên bởi mỗi tấm hình. Như vậy là thời trai trẻ, tên trộm khét tiếng trong tương lai này lại là mũi tiên phong của công tác nhân đạo, một mũi tên đơn độc với cái nhìn chai sạn để lộ rõ nỗi buồn sâu thẳm, sự nổi loạn và thiếu thốn tình yêu.
Hai bức ảnh cuối cùng hoàn toàn khác những tấm trước đó. Bức thứ nhất chụp Archibald đang vòng tay ôm một người phụ nữ trên bãi biển. Phía sau lưng họ là mặt biển xanh thăm thẳm, những dãy núi phủ đầy tuyết trắng và những dãy nhà san sát của một thành phố sầm uất mà Martin rất quen thuộc.
Tò mò, anh chàng cảnh sát vừa từ bỏ sự nghiệp lật tấm ảnh lại. Phía sau, một dòng chữ đã phai màu được viết bằng bút mực - Antibes, tháng Giêng 1974 - và bên dưới là một lời nhắn bằng tiếng Pháp:
Hãy giữ em ở cạnh anh.
Mãi mãi.
Em yêu anh.
Valentine.
Vậy là Archiald đang đi nghỉ ở vùng biển Côte d'Azur vào đúng năm anh được sinh ra ở đó. Phát hiện này khiến anh càng tin rằng số phận đã buộc hắn vào với anh.
Martin tối kỵ xâm phạm đời tư người khác mà không được phép. Vì vậy anh cảm thấy hơi bối rối khi nhìn kỹ hơn người phụ nữ của Archibald: một người phụ nữ mà anh đoán là rất đẹp, dù nửa khuôn mặt bị che khuất bởi những lọn tóc dài màu hung tung bay trong gió. Quả tình, sự sành sỏi của tên trộm không chỉ dừng lại ở các tác phẩm nghệ thuật...
Tấm ảnh cuối cùng chụp toàn cảnh Archibald đang đứng trên sân thượng một nhà hàng ở vùng Provence. Mặt tời rọi sáng khuôn mặt khiến hắn rất hiền từ. Tất cả các đường nét trên khuôn mặt đều thư giãn. Đó là khuôn mặt của một người đàn ông đã buông vũ khí mà không hề lo lắng vì điều đó. Khuôn mặt của một người đàn ông đang yêu, không hề nhìn vào ống kính mà dõi theo nụ cười đón chào của một người phụ nữ.
Trên tấm ảnh không hề có một lời ghi chú nào, song Martin dám đánh cược rằng chính Valentine đang cầm máy chụp.
Cô ta là ai? VàArchibald đã làm gì mà để đến nỗi bị bắt giam?
Càng lúc càng bị cuốn hút, Martin tiếp tục đọc tập hồ sơ bao gồm một bản lấy cung của cảnh sát, một cáo trạng cùng phán quyết của tòa án.
Vụ án xảy ra trong một đêm tháng Mười hai năm 1975.
Một đêm lẽ ra phải tràn đầy hạnh phúc.
Vậy mà lại trở thành một đêm đầy bi kịch.
° ° °
San Francisco
Thứ Hai ngày 23 tháng Mười hai năm 1975
5 giờ sáng
- Anh ơi, em đau quá!
Archibald bật dậy, mở choàng mắt.
Bên cạnh hắn, Valentine đang quằn quại vì đau. Cô đang mang thai tháng thứ sáu. Thời gian gần đây, cô thường bị những cơn đau dạ dày vò xé. Cô ăn không còn thấy ngon miệng và thường xuyên nôn ọe. Bác sĩ đa khoa khám cho cô chỉ chẩn đoán cô bị viêm dạ dày ruột non, song bệnh tình cô ngày càng trở nên trầm trọng hơn.
- Chúng ta vào viện thôi! Hắn quyết định và đỡ cô dậy.
Hắn hôn phớt lên trán cô rồi giúp cô đứng lên. Hắn vừa trở về lúc nửa đêm sau một chuyến công tác sang châu Phi. Máy bay của hắn bị chậm mất ba ngày vì từ một tuần nay, nước Mỹ bị một đợt thời tiết lạnh chưa từng có tấn công: bão tuyết, băng giá bao phủ khắp đất nước từ bờ biển này sang bờ biển khác, khiến cho nhiều nơi bị mất điện và làm gián đoạn hệ thống giao thông đường bộ cũng như đường không vào chính giữa kỳ nghỉ Noel. Thậm chí, kể cả ở California, giá rét cũng làm đảo lộn mọi thứ: người ta đã phải đóng cửa một số tuyến đường cao tốc và tại San Francisco, trời đã đóng băng suốt sáu ngày liên tiếp. Một hiện tượng chưa từng có.
Cũng may mà xung quanh giường họ nằm có tới ba cái lò sưởi điện liên tục thổi ra hơi nóng, nhờ vậy họ mới có thể tạm ở được trong ngôi nhà nằm bên trên mặt nước,cô hỉ lớn hơn túp lều tuyết một chút xíu.
Được Archibald dìu, phải khó nhọc lắm Valentine mới đứng lên được. Đôi chân cô phù mọng lên, một cảm giác khó ở đang dâng lên và cơn đau đầu nhức nhối khiến cô cảm thấy buồn nôn.
Họ loạng choạng bước ra khỏi nhà. Bên ngoài, bến cảng nhỏ Sausalito vẫn còn chìm trong bóng tối. Phía trước nhà thuyền của họ, chiếc xe Mustang màu đỏ son họ vừa mới tậu đã được đọc bín bằng một lớp băng.
Archibald đỡ Valentine ngồi vào xe rồi bắt đầu dùng móng tay cạo lớp đá đóng ngoài vỏ xe.
- Anh ơi, trong cốp xe có một cây nạo tuyết đấy... cô dịu dàng nói với hắn.
Cô vừa nói hết câu thì hắn đã xong. Chìa khóa đã tra vào ổ, động cơ rền lên và hướng về phía bệnh viện.
- Lần này thì không thể liều được, chúng ta tới bệnh viện Lenox thôi!
- Không, Archie, chúng ta tới thẳng bệnh viện Mission nơi em sẽ sinh ấy.
Archibald không muốn làm cô phật lòng, nhưng hắn chẳng hề tin tưởng ông Alister, bác sĩ sản khoa đang theo dõi thai cho cô. Ông ta rất thô thiển và quá tự tin, một người không thể nào trò chuyện được.
Hắn tìm cách thuyết phục cô:
- Ở Lenox có bác sĩ Elliott Cooper.
- Nhưng Elliott là bác sĩ phẫu thuật tim cơ mà, anh yêu...
Hắn nhìn cô. Cho dù đau đớn, cô vẫn nở một nụ cười hiền dịu và gần như thích thú vì cuộc đôi co của họ.
Vậy là dù thế nào cô cũng vẫn thắng cuộc, "Archie" đành rẽ vào đường Richardson khi qua hết cây cầu Cổng vàng.
- Anh không bật nhạc lên sao, anh yêu?
- Valentine, nhưng em đang...
- Anh đừng phản đối nữa, bật nhạc lên đi! Để em có thể nghĩ đến gì đó khác ngoài chuyện đau đớn!
Trên đài buổi sáng hôm ấy là giọng hát trầm ấm của Leonard Cohen đồng hành với họ trên suốt quãng đường họ đi từ những thung lũng ở đường Divisadero tới những ngọn đồi Pacific Heights và Haight Ashbury.
Valentine thật xinh đẹp. Kể cả trong những cơn đau bụng, đau đầu hay buồn nôn, cô vẫn xinh đẹp.
Cô nhìn hắn và mỉm cười.
Họ vẫn không hề biết đó là bài hát cuối cùng họ được nghe cùng nhau...
° ° °
Họ tới Castro - một nơi bắt đầu mang biệt danh "khu người đồng tíh" từ khi thành phố công nhận Đạo luật đồng tính hay Quyền được đồng tính để chống nạn phân biệt giới tính. Rồi họ rẽ trái, đi hết Công viên Dolores và tới Quận Mission, khu của những người Tây Ban Nha. Khu này luôn bị khách du lịch bỏ qua và không hề xuất hiện trong bất cứ cuốn sách hướng dẫn du lịch nào, song đây lại chính là khu phố cổ nhất của thành phố. Chính tại nơi này vào năm 1776, người Tây Ban Nha đã lập nên nhà thờ đầu tiên của họ và biến nó thành trung tâm truyền bá kinh Phúc Âm của dòng Thánh Francois trong cả vùng.
Archibald căm ghét khu phố này vì hắn thấy nơi đây thật thảm thê, bạo lực và đổ nát. Valentine lại rất yêu thích vì thấy nơi đây nhiều màu sắc, rực rỡ và sôi động.
Vì bị chắn bởi cả công trường xây dựng BART, hệ thống đường sắt ngoại ô đã xẻ dọc thành phố trong suốt nhiều tháng, nên muốn vào bệnhviện phải đi bằng cửa sau, và họ buộc phải đi vòng qua tòa nhà. Trong bóng đêm, những tấm biển hiệu sáng đèn nhấp nháy từ những quán bar Mexico. Cho dù các cửa sổ đều khép kín, họ vẫn ngửi thấy mui thức ăn từ bếp tỏa ra: ớt, bột bánh burrito, bột ngô trộn bơ chảy.
Cuối cùng họ cũng tới được khoa cấp cứu, và ngay lập tức họ choáng váng khi nhìn thấy quang cảnh lộn xộn ở đây. Chỉ cần nhìn phòng chờ ngập người cũng có thể đoán ra được bệnh viện đang quá tải. Chưa kể trong sảnh còn đầy những người vô gia cư và ăn mày, đang đứng chờ được khám ở phòng khám miễn phí cũng nằm cùng trong khu vực này.
Đây chính là mảng tối của thành phố này: số lượng người vô gia cư ngày một tăng lên trong sự thờ ơ của hầu hết mọi người, những chàng trai trở về từ Việt Nam trong tình trạng khủng hoảng tâm lý nặng đang vật vờ dọc hành lang các bệnh viện tâm thần, và rốt cuộc sống ra đường ngủ trong thùng các tông hoặc trên ghé băng dưới ga tàu điện ngầm. Nhưng chính việc buôn bán ma túy tràn lan mới gây ra những hệ quả cực kỳ ghê gớm: San Francisco phải trả giá đắt cho sự quá trớn của phong trào Hippi. Không, ma túy tổng hợp cũng như heroin không hề cải thiện tinh thần và giải phóng ý thức cho con người. Nó chỉ làm cho những người không biết cách dứt ra khỏi nó bị biến thành những xác ướp trơ xương chết ngay trên vỉa hè, kim vẫn cắm trên bắp tay và miệng sùi bọt mép.
- Chúng ta đi! Archibald quyết định dứt khoát và quay về phía Valentine.
Cô gái mở miệng định phản đối nhưng rồi hơi thở của cô đột nhiên ngừng lại và cô ngã xoài ra đất.
° ° °
- Thế nào?
Trong một nơi được coi là phòng khám, Archibald ngồi đối diện bác sĩ Alister, người vừa mới nhận được những kết quả xét nghiệm đầu tiên của Valentine.
Hai người đàn ông cùng tầm tuổi với nhau. Họ đã có thể là anh em, bạn hữu, song ngay từ lần đầu tiên gặp mặt họ đã cảm thấy một cảm giác ghen ghét ngấm ngầm đặt họ vào thế đối lập.
Một người sinh ra trên đường phố, người kia ở Beacon Hill.
Một người khoác áo bu dông, người kia đeo cà vạt.
Một người có kinh nghiệm sống, người kia có bằng cấp.
Một người sống bản năng, người kia theo lý lẽ.
Một người đang yêu, một người muốn được yêu.
Một người không cao to lắm, không đẹp trai lắm, nhưng lại rất đàn ông. Người kia đẹp trai, quyến rũ và hễ mở miệng là thốt ra những lời khen ngợi.
Một người chẳng nhận được gì từ cuộc sống, vì vậy buộc phải đấu tranh để giành giật. Người kia được cuộc sống cho rất nhiều, thế nên không có thói quen nói lời cảm ơn.
Một người đã phải vật lộn nhiều năm mới có được niềm hạnh phúc tỉnh giấc bên người phụ nữ duy nhất của đời mình. Người kia đã kết hôn với mối tình đầu ở trường đại học và còn phiêu lưu với một loạt nữ y tá thực tập, trong ánh đèn mờ ảo tại các phòng chẩn đoán hình ảnh.
Người này căm ghét tất cả những gì người kia thể hiện.
Và điều này thì cả hai người đều cảm thấy.
- Thế nào? Archibald nói vì quá sốt ruột.
- Các xét nghiệm máu cho thấy lượng tiểu cầu đang ở mức quá thấp: bốn mươi nghìn trong khi chỉ số tối thiểu phải là một trăm năm mươi nghìn. Kết quả xét nghiệm gan cũng không tốt lắm, nhưng...
- Thế anh định làm gì?
- Chúng tôi đã kê thuốc hạ huyết áp cho cô ấy và chuẩn bị truyền máu để tăng lượng tiểu cầu lên.
- Sau đó thì sao?
- Chúng tôi đang đợi.
- Đợi cái gì? Archibald nổi cáu. Huyết áp cao, nước tiểu có albumin: cô ấy đang bị tiền sản giật.
- Chưa chắc.
- Cần phải chấm dứt ngay thai kỳ.
Alister lắc đầu.
- Không, chúng ta có thể tiếp tục kéo dài thai kỳ nếu như có thể ổn định tình trạng chung của vợ anh. Hiện giờ, các dấu hiệu sinh hóa chưa có nghiêm trọng và cũng chẳng có gì chứng tỏ mọi chuyện đang diễn ra theo chiều hướng xấu.
- Không có gì nghiêm trọng? Anh đùa hay sao thế?
- Nghe tôi đây, anh bạn, anh không phải bác sĩ.
- Đúng vậy, Archibald thừa nhận, nhưng chắc chắn hồi còn ở châu Phi tôi đã nhìn thấy nhiều phụ nữ chết vì chứng tiền sản giật hơn ông.
- Lúc này chúng ta không ở châu Phi. Mà vợ anh cũng mới chỉ bước sang tuần thứ hai mươi lăm của thai kỳ. Mổ cho cô ấy lúc này chẳng khác nào giết chết đứa bé...
Gương mặt của Archibald thay đổi hẳn, để lộ nét căng thẳng và cay đắng.
- Tôi không quan tâm, hắn đáp, tôi chỉ muốn cứu vợ tôi thôi.
- Vấn đề không hoàn toàn như vậy, bác sĩ Alister tìm cách làm hắn bớt căng thẳng. Chúng tôi muốn tìm một thời điểm sinh thích hợp, đảm bảo tính mạng cho cả người mẹ và đứa bé.
- Nhưng điều duy nhất mà ông làm được là phá hủy não, gan, thận của cô ấy...
- Tôi đã trao đổi về việc này vớivợ ông. Cô ấy biết rất rõ có thể rủi ro nhưng cô ấy vẫn không muốn mổ lấy đứa bé ra vào thời điểm này.
- Cô ấy không có quyền quyết định.
- Không, tôi mới có quyền. Và tôi chẳng thấy có một nguyên nhân y khoa nào chính đáng để chấm dứt thai kỳ của cô ấy.
° ° °
Archibald quay trở lại phòng của Valentine. Ngồi xuống bên cạnh cô, hắn vuốt nhẹ gương mặt cô. Hắn nghĩ lại chặng đường dài dằng dặc mà họ đã cùng đi qua, để được sống với một tình yêu có thể không bao giờ trở thành hiện thực. Hắn nghĩ tới tất cả những chướng ngại mà họ đã vượt qua, tất cả những nỗi sợ hãi mà họ đã cùng nhau chế ngự.
- Em không muốn mổ đâu! Cô van vỉ.
Làn da cô vàng vọt, hai mắt thâm quầng và ầng ậc nước.
- Em mới mang thai được hai mươi lăm tuần thôi, anh yêu! Hãy để em ấp ủ con thêm một thời gian nữa!
Cô cần hắn, song hắn thấy mình bất lực. Hắn đã hứa với cô sẽ luôn hiện hữu, cả trong những ngày đẹp trời cũng như những khi thời tiết xấu, những ngày khỏe mạnh cũng như lúc ốm đau. Hắn đã hứa sẽ bảo vệ và chăm sóc cô, nhưng con người ta thường hứa hẹn nhiều hơn những gì làm được.
Cô nhìn hắn và mở to đôi mắt.
- Hãy để em tiếp thêm cho con chút sức mạnh...
- Nhưng em có thể mất mạng, em yêu.
Bị quấn chằng chịt trong mớ dây truyền dịch, cô cố gắng với lấy cánh tay hắn và cho dù đau đến nghẹn thở cô vẫn nói:
- Đứa bé này, em muốn sinh nó ra vì anh. Em cảm thấy nó đang sống trong em! Nó là một bé gái, anh biết không, em chắc chắn như vậy! Anh sẽ yêu nó, Archie, anh sẽ yêu nó!
Hắn định mở miệng nói với cô rằng cô mới là người hắn yêu. Nhưng hắn thấy hai mắt cô đột nhiên trợn ngược. Rồi những thớ thịt trên mặt và hai bàn tay cô đột nhiên co rút lại, rồi...
° ° °
- Ông nhất định phải thực hiện cái ca mổ chết tiệt này!
Archibald chặn Alister lại và gào lên ở giữa hành lang.
Bàng hoàng, gã bác sĩ thấy hắn lao thẳng vào mình, sôi lên trong cơn giận và sẵn sàng nghiền nát gã.
° ° °
Trên giường bệnh, Valentine cắn cả vào lưỡi vì nghiến chặt hàm răng. Hai cánh tay, hai chân cô cứng đờ, hơi thở của cô trở nên co thắt và đứt quãng.
° ° °
Vẻ bình thản, nhân viên an ninh lại gần Archibald rồi tiến tới, vũ khí trong tay, rồi áp sát hắn từ phía sau. Anh ta đã quen khuất phục những gã nghiện, thường rất liều lĩnh, vừa mới bị từ chối một liều Subutex.
Nhưng Archibald không phải một con nghiện. Vừa thoáng thấy anh ta, hắn đột nhiên cúi thấp người xuống và bằng một động tác vừa nhanh vừa mạnh, hắn xoay bàn chân rồi tung một cú đá hậu. Bị hất thẳng xuống đất, nhân viên bảo vệ buông rơi vũ khí và Archibald nhanh chóng nhặt lên luôn.
° ° °
Valentine bị co giật dữ dội. Nước dãi và máu rỉ ra từ mép khiến cô bắt đầu thấy ngạt thở.
° ° °
- Cô ấy đang co giật, đồ ngu!
Về sau, trong phiên tòa, Archibald giải thích rằng hắn chỉ muốn dùng vũ khí đe dọa ông bác sĩ, hắn chỉ muốn làm ông ta sợ, nhưng chẳng may súng cướp cò và rằng hắn không bao giờ muốn bóp cò. Nhân viên bảo vệ cũng thừa nhận khẩu súng không được bảo dưỡng thường xuyên và chính anh cũng đã gặp phải tình huống không mong muốn như vậy tới hai lần. Mặc dù vậy, tình tiết không cố ý đó cũng chẳng thay đổi được kết quả: bác sĩ Alister nhân một viên đạn cỡ 9 ly vào phổi bên phải.
Archibald buông rơi khẩu súng đúng lúc vợ hắn ngất đi và chìm vào cơn hôn mê. Người ta ôm ngang lưng và xô hắn ngã sấp xuống đất rồi còng tay hắn, tất cả diễn ra trong sự ồn ào náo loạn không thể nào tả xiết.
Khi cảnh sát đưa hắn đi, hắn vẫn ngoái nhìn về phía phòng Valentine và dường như hắn nghe thấy người bác sĩ trực hét lên:
- Chúng ta đang để mất cô ấy!
Rồi giọng nói của một nữ y tá:
- Một bé gái.
° ° °
Vào ngày thứ Năm ấy, khoa Chăm sóc đặc biệt thuộc bệnh viện quận Mission đã tiếp nhận một bé gái sinh sớm ba tháng tuổi. Em bé nặng 510 gram và chỉ dài chưa đầy 30 phân. Giống như nhiều bé sinh non khác, em cũng là một đứa trẻ cân đối, khuôn mặt dễ thưng như thiên thần và lớp da còn bọc sáp mịn màng và mỏng dính, lộ rõ cả những mạch máu.
Bác sĩ được gọi tới khẩn cấp để tiến hành ca hộ sinh đã phải ngần ngừ một lúc rồi mới thử hồi sức cho đứa nhỏ, và kể cả sau khi làm xong ông vẫn không dám đánh cược, dù chỉ một đô la, cho sự sống sót của nó.
Mặc dù vậy người ta vẫn đặt đứa bé vào lồng ấp và cắm ống thở.
Bà hộ sinh chăm sóc đứa bé tên là Rosalita Vigalosa. Bà sống ở khu phố này từ hai chục năm nay và khắp vùng ai ấy đều gọi bà là Mama. Đích thân bà cứ ba tiếng đồng hồ lại lau sạch những lá phổi vẫn còn non nớt của đứa trẻ sơ sinh một lần để giúp nó có thể tự thở.
Mỗi buổi sáng khi đi làm,bà có thói quen đi vòng qua nhà thờ Mission Dolores để thắp một ngọn nến và cầu nguyện cho đứa nhỏ có thể sống được. Vài ngày sau, rốt cuộc bà đã gọi nó là "đứa bé của phép màu".
Trên chiếc vòng đeo tay cho trẻ sơ sinh, khi phải viết tên đứa bé lên đó, Rosalita tự nhủ rằng đứa bé này chắc chắn sẽ cần tới sự che chở của các thiên thần mới có thể tự xoay xở trong cuộc sống.
Vì vậy, như một tấm bùa hộ mệnh, bà đã chọn cho nó cái tên của thiên thần đầu tiên:
Gabrielle.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.