"Sáu mươi năm rồi, thỉnh thoảng sẽ thấy đau." Prudence chỉ vào đùi phải của mình: "Có đôi khi là vì thời tiết xấu, đôi khi thì không. Phần lớn là do tác dụng của tâm lý, không liên quan đến xương khớp đâu, chúng vẫn còn khỏe lắm. Hồi còn sống ở Oxford, cuối tuần nào tôi cũng đi đánh quần vợt, chưa từng xảy ra chuyện gì cả... Cậu có thích chơi quần vợt không, cậu Rivers? Hay cậu thích chơi bóng chày hơn? Đó quả là một trò thú vị, tiếc là đến giờ tôi vẫn chưa rõ luật lệ của trò bóng chày. Bác sĩ Wilkins nói rằng tôi rất may mắn, nếu đến trễ thêm mấy tiếng nữa, hai đứa tôi đã có thể chết vì nhiệt độ cơ thể quá thấp. Ông ấy đúng là đã dùng từ 'may mắn', tôi đoán có lẽ do ông ấy quá ngại để dùng một từ nặng hơn."
"Là Martha đã để ý đến việc chúng tôi mất tích, mới đầu bà ấy cũng không chắc chắn lắm nhưng khi nhìn thấy chuồng ngựa trống không thì đã hiểu ngay mọi chuyện. Nam tước và viên cảnh sát mập lập tức họp thành một đội tìm kiếm, họ tìm từ sân chơi mã cầu đến tận ngoài bãi biển. Ban đầu bọn họ chỉ lo rằng chúng tôi lén chui qua lưới sắt để đến chơi ở bãi cát có chôn mìn nhưng lưới sắt vẫn nguyên vẹn không hỏng hóc gì, nó còn cao hơn cả một người trưởng thành, cho dù hai đứa bé trai có thể bò qua thì chú ngựa con kia vẫn không thể đi lọt. Bọn họ còn đến cả 'Nhà trên cây', nơi nhà thờ đã bị sụp đổ nhưng vẫn không thấy ai ở đó. Lúc này thì trời đã hoàn toàn sụp tối, bọn họ quyết định quay về dinh thự. Đèn pin không đủ nên người làm vườn đã chuẩn bị một ít ngọn đuốc được làm theo kiểu xưa, đó là những que gỗ được quấn vải tẩm bằng dầu hỏa. Ba chiếc xe lần lượt lên đường: Chiếc Land Rover của Nam tước, xe cảnh sát và chiếc xe chở hàng màu xanh lá cây nho nhỏ mượn từ bưu điện."
"Một người nông dân đã cung cấp đầu mối, người ấy nói rằng ông đã nhìn thấy hai đứa bé trai ở gần một cối xay bột vào buổi chiều, lúc đó ông ấy đang sửa chuồng bò, khoảng cách quá xa nên không thể nhìn thấy rõ ràng nhưng một chú ngựa con xinh đẹp đã lưu lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí ông. Mười mấy dặm quanh cái cối xay bột ấy toàn là vùng hoang vu vắng vẻ, nếu hai đứa nhỏ thật sự đã đi tiếp về phía đông như lời ông ấy đã nói, sợ rằng chúng phải đi đến tận ga Reckenston mới có thể tìm thấy chỗ nghỉ chân. Ai trong đám người cũng chưa từng nghe qua nơi này, người nông dân nói sơ qua hướng đi, ông còn nói với họ rằng ở ga Reckenston có một người chuyển ray sống ở đó, có lẽ ông Karl già đã nhìn thấy hai đứa bé trai mất tích."
"Đoàn xe lái được đến cối xay bột trước nửa đêm, họ tìm được đường sắt rồi lái dọc theo nó, nếu không phải trên đường bỗng xảy ra chuyện bất ngờ, họ hẳn đã có thể đến được trạm xe lửa trước khi trời sáng; xe chở hàng của bưu điện bị bể bánh xe, cậu nghĩ đi, cậu Rivers, đường xá ở nông thôn lúc bấy giờ vô cùng tệ hại, dọc khắp đường đi toàn là những hòn đá nhỏ nhưng nhọn hoắt. Bọn họ thử sửa lại bánh xe giữa vùng hoang vu, cuối cùng từ bỏ, đám người quyết định để xe chở hàng ở lại đây, sau này sẽ xử lý. Tất cả mọi người chen vào hai chiếc xe còn lại, tiếp tục lên đường, lúc đến được trạm xe lửa thì đã đến giờ ăn sáng."
"Khi đó thì hai ngài đã ở trong hố bẫy suốt một đêm." Người phóng viên nói.
Prudence gật đầu: "Ngoài phát sốt, tôi chỉ có hai loại cảm giác, lạnh và đau. Tôi không biết ai trong chúng tôi thấy sợ hơn, chắc là Alex, bởi vì tôi đã không còn tỉnh táo mấy. Người chuyển ray nói với viên cảnh sát mập rằng hai đứa bé trai đã đến nông trại của góa phụ Megan, vì vậy mà bọn họ phải tốn hai mươi phút nữa để lái đến nông trại, Megan cầm theo một cái chĩa và dẫn theo hai con chó để ra ngoài đón tiếp đám người xa lạ ấy, bà nói rằng mình chưa từng gặp hai đứa bé trai và một chú ngựa con nào, vị khách không mời mà đến duy nhất vào ngày hôm qua chính là một con chồn, nó đã bị chú chó cắn chết."
"'Nếu hai đứa ngốc nghếch ấy đến từ trạm xe lửa.' Megan nói tiếp: 'Vậy thì rất nguy hiểm, ở đồng cỏ ấy có không ít bẫy săn cáo đâu.'"
"'Dẫn chúng tôi đến đó đi.' Nam tước nói với bà."
"Tổng cộng có bốn cái bẫy săn cáo, cỏ dại mọc um tùm, dù có là Megan thì cũng phải mất một ít thời gian để đi tìm. May mắn là Mercury vẫn chưa rời đi, bọn họ đã nhìn thấy chú ngựa con trung thành này từ phía xa xa. Đám chó chạy tới trước, đến bây giờ tôi vẫn có thể nhớ rõ hai con chó chăn cừu ấy trông như thế nào, chúng giống như quái vật bước ra khỏi ác mộng của tôi, sủa điên cuồng bên ngoài hố bẫy, để lộ hàm răng sắc nhọn. Megan chạy tới ngay sau đó rồi mắng chó của bà, bà nhìn chúng tôi, lớn tiếng mắng một câu thô tục rồi ném sợi dây xuống."
Người phóng viên nhíu mày lại: "Các ngài leo lên bằng cách nào?"
"Chúng tôi không leo lên. Nam tước đã nhảy xuống, ông buộc sợi dây quanh hông Alex rồi để viên cảnh sát mập kéo cậu ấy lên. Đến lượt tôi thì bọn họ phải tốn nhiều thời gian hơn. Kế hoạch ban đầu là dựng một cái thang dây để Nam tước ôm tôi lên nhưng quyết định sau cùng của bọn họ là không nên mạo hiểm. Người làm vườn mượn vài tấm ván từ kho thóc của Megan rồi đóng tạm thành một cái cáng, sau khi đặt tôi lên đó, họ cột chặt dây vào hai đầu cáng rồi kéo nó lên. Megan vừa trách móc đám trẻ con ngu ngốc và đám người xa lạ nhiều chuyện đã phá hư một ngày của bà, vừa hào phóng bảo rằng sẽ cho mượn chăn và xe chở hàng. Người làm vườn che mắt Mercury lại với một miếng vải rồi dỗ nó lên xe chở hàng. Chúng tôi trở về thị trấn trước khi trời tối, cuộc hành trình mạo hiểm cũng chấm dứt ở đây."
Nhân viên y tá gõ cửa đi vào, cậu cầm theo vài hộp thuốc nhựa và một ly nước. Prudence kiểm tra từng nhãn dán trên hộp thuốc rồi để thuốc ra lòng bàn tay, ông nuốt xuống, nháy mắt với người phóng viên, tựa như đang nói đây chính là cách mà một ông già sống qua một ngày. Nhân viên y tá dọn dẹp hộp thuốc rỗng và ly nước, hỏi xem bọn họ có cần gì khác không.
"Trà nóng là được, cảm ơn." Prudence trả lời.
Nhân viên y tá đi ra ngoài, vẫn giống như một hồn ma, không hề có tiếng bước chân. Chiếc bút thu âm được đặt trên bàn uống trà bỗng kêu mấy tiếng "tích tích" chói tai, có lẽ là sắp hết pin, người phóng viên phải lật tung chiếc túi xách mới có thể tìm được pin dự phòng để thay. Prudence đứng dậy khỏi chiếc ghế bập bênh, ông đi tới cạnh lò sưởi sát tường, rút hai mảnh gỗ thông từ trong giỏ rồi ném vào trong lửa. Ngoài cửa sổ, bầu trời trông như một lớp băng đục giữa mùa đông lạnh giá.
Lần thứ hai nhân viên y tá tiến vào, cậu không gõ cửa, chỉ đặt ấm trà đã được bọc trong lớp len cách nhiệt lên bàn. Người phóng viên nói cảm ơn thật nhỏ, nhân viên y tá gật đầu, nhẹ nhàng đóng cửa lại.
"Bọn họ chưa từng hỏi tại sao." Prudence nói, ông đưa lưng về phía người phóng viên, nhìn lò sưởi.
"Ai cơ?"
"Tất cả mọi người. Nam tước Loiseau, viên cảnh sát mập, Martha, người làm vườn, đầu bếp và người hầu gái trẻ tuổi, họ chưa từng hỏi tại sao tôi và Alex lại lặng lẽ chạy đến một nơi xa như vậy, biểu hiện của bọn họ giống như chuyện này chưa từng xảy ra. Bác sĩ Wilkins để tôi nằm yên trên giường suốt ba tháng, đối với một đứa bé trai thì nó dài như một thế kỷ vậy. Alex ở luôn trong phòng của tôi... Trông cậu ấy giống như đã chở toàn bộ 'Nhà trên cây' đến, cậu ấy mang sách hoặc đồ kẹp tranh, một hộp đầy bi ve, ngoài ra còn có đủ loại thức ăn trộm được từ phòng bếp, thậm chí có một lần cậu ấy còn mang đến một chú chim sẻ, đó là chú chim mà cậu ấy đã cứu được từ miệng của một con mèo hoang. Chú chim đáng thương vùng vẫy suốt hai ngày trong hộp bánh quy được lót bằng vải sợi bông, cuối cùng vẫn không thể sống sót."
Người phóng viên cúi người về trước: "Trên thực tế, ngoại trừ chương hai và chương ba vô cùng nổi tiếng, 'Mùa hè bất tận' còn có một đoạn rất hay được mọi người thảo luận..."
"Nụ hôn trong phòng hứng nắng."
"Chuyện đó có thật không? Các ngài có biết ý nghĩa của nó không? Ngài Loiseau đã miêu tả chuyện đó thành một trò chơi, đó là sự ngây thơ của trẻ con muốn bắt chước theo người lớn, nhưng nếu thật sự chuyện đó chẳng quan trọng gì mấy đối với tác giả, tại sao ngài ấy lại phải dùng một đoạn dài như thế để miêu tả?"
Prudence chậm rãi quay về với chiếc ghế bập bênh, ông phủi tấm chăn rồi trải lên trên đùi, nắm hai tay lại.
"Tôi đã nói là cậu ấy mới là người có thiên phú giữa hai chúng tôi, thiên phú của cậu ấy vô cùng có sức thuyết phục, không giống với những luật sư biện hộ, mà là... nghe có vẻ kỳ lạ nhưng tôi cảm thấy nó giống với một bức tranh phong cảnh. Alex sẽ sửa lại màu sắc của bức tranh, sẽ vẽ thêm một ngọn cây vào chỗ cậu không để ý đến, vẽ thêm bóng mờ, vẽ thêm một hòn đá, nhìn thì không bắt mắt mấy nhưng khi cậu quan sát lại bầu trời, cậu sẽ thấy màu sắc của Alex thích hợp hơn."
"Vì vậy?"
"Vì vậy, tôi rất tiếc phải nói với cậu rằng đó chỉ là tưởng tượng của Alex. Cậu ấy đã viết nên 'trò chơi' đó, mặc dù nghe rất đáng yêu nhưng chuyện đó lại chưa từng xảy ra, lúc đó chúng tôi chỉ là những đứa trẻ, nói chính xác hơn là một đôi bạn chơi với nhau."
"Vậy là tất cả chỉ là hư cấu thôi sao?"
"Alex đã bắt tay viết đoạn này trước, chúng tôi đã từng có một trận - nói một cách khéo léo - tranh chấp trong không vui, mối quan hệ giữa chúng tôi khi đó lại đang..." Prudence liếc nhìn những phong thư cũ trong hộp sắt, tựa như có thể tìm thấy lòng tin từ nơi đó: "Ở một thung lũng. Cậu ấy muốn dùng cách này để tìm lại tôi của năm 1940, cậu ấy thích tôi của khi ấy hơn. Cậu ấy đã nghĩ rằng tôi sẽ không bao giờ nhìn thấy tập bản thảo này."
"Ngài cũng thích bản thân của quá khứ hơn sao?"
"Đó quả là một câu hỏi triết học vô cùng sắc sảo." Prudence nở nụ cười mỉm, ông nhìn chằm chằm vào màn mưa ngoài cửa sổ hồi lâu rồi mới lắc đầu: "Xin lỗi, cậu Rivers, tôi cũng không biết."
"Ngài có phiền khi tôi hỏi thêm một chuyện không?"
"Không sao."
"Sau đó ngài có tìm được mẹ của mình không?"
"Không bao giờ." Prudence rũ mắt, vuốt nếp nhăn trên chăn: "Ngày 15 tháng 9, hai chiếc máy bay Stuka đã san bằng khu phố nơi nhà tôi ở. Không ai biết liệu bà ấy có xuống hầm trú ẩn hay không, chúng tôi cũng không tìm được thi thể của bà. Trong hồ sơ của chính phủ, bà ấy thuộc về trạng thái mất tích. Lần bà ấy đưa tôi lên xe lửa chính là lần gặp mặt cuối cùng của chúng tôi."
"Tôi rất tiếc."
"Cảm ơn cậu."
Ngọn đèn trên bút thu âm yên lặng lóe lên.
"Cậu Rivers."
"Sao ạ?"
"Đến bây giờ, cậu có phát hiện trong câu chuyện của Alex thiếu mất nhân vật nào không?"
Người phóng viên mím môi, nhẹ nhàng gõ chiếc bút bi vào quyển sổ tay: "Người mẹ à?"
"Đúng vậy. Trong thư phòng có hình của bà nhưng chưa có ai từng nhắc tới phu nhân của Nam tước Loiseau. Chuyện liên quan đến bà tôi chỉ mới nghe vào sau này - mười mấy năm sau, đó là lần đầu tiên tôi trở về Cornwall từ Oxford - mọi thứ chỉ còn là mảnh vụn, có khi còn mâu thuẫn nữa chứ, có người nói rằng bà ấy đang ở Brighton, người khác lại nói rằng thật ra bà ấy đang ở London chung với nhân tình trẻ tuổi, những nhân tình, số nhiều. Alex giải thích rằng phu nhân của Nam tước mắc bệnh phổi cho nên chỉ có thể ở những vùng phía bắc, cậu ấy không nói rõ là ở vùng phía bắc nào, có lẽ cậu ấy thật sự không biết, cũng có lẽ 'bệnh phổi' chỉ là một cái cớ được George và Leila bịa ra để an ủi cậu ấy. Bất kể thế nào, tôi chỉ mới gặp bà ấy một lần, đó là vào hôn lễ của George, bà ấy đột ngột xuất hiện rồi lại lặng lẽ rời đi, không hề nói chuyện với bất cứ kẻ nào."
"Giống như một bóng ma."
"Giống như một bóng ma." Prudence rót cho mình một tách trà, hơi nóng bốc lên khỏi tách: "Chúng ta nói đến đâu rồi nhỉ? Gãy xương, chim sẻ nhỏ, tháng mười. Mùa hè đầu tiên của tôi và Alex kết thúc, mùa đông năm ấy đến sớm hơn so với tưởng tượng của tôi."