Sau khi Bạch Lan Độ thống lĩnh đại quân đi tới Ni Á Mỗ một tuần thì đợt thiết giáp thuyền đầu tiên cũng được Vũ Lôi vận chuyển tới.
1000 chiếc!
Đây chỉ là đơn hàng đầu tiên nhưng số lượng đã gần như ngang ngửa với số thiết giáp thuyền liên quân mua lúc trước.
Tài lực của Thánh Hỏa Giáo thực sự kinh người, liên quân không thể nào trách cứ Đào nguyên nhất bên trọng nhất bên khinh được vì Thánh Hỏa Giáo đưa ra mức giá 30 vạn kim tệ một chiếc, còn liên quân chỉ có thể mua với giá 28 vạn, chỉ riêng điều này thôi thì liên quân đã phải mang ơn Đào nguyên rồi.
Thiết giáp thuyền vừa được đưa tới Thánh Hỏa Giáo, họ liền bắt đầu huấn luyện thủy quân.
Tư nguyên của Thánh Hỏa Giáo thực sự hơn xa liên quân, họ thậm chí còn có một bộ phận thủy quân số lượng khá lớn.
Bộ phận thủy quân này vốn là quân đội của các nước ven biển, sau khi bệnh dịch bạo phát, những nước này đã bị tan vỡ, rất nhiều thủy quân đã đi vào đất liền. Lần này Thánh Hỏa Giáo tập kết quân sự, bọn họ vốn không thiếu nhân tài, tự nhiên có thể nghĩ tới dòng sông Ni Á Mỗ thiên hiểm, vì vậy lúc chiêu binh đã rất quan tâm đến người biết thủy chiến. Trong 23 vạn quân này người biết bơi có tới hơn 1/3, người xuất thân từ thủy binh ít nhất cũng 2 vạn, so với liên quân không hề thua kém.
Cho dù không có thủy quân Đào nguyên giúp đỡ thì bọn họ vẫn có thể triển khai huấn luyện thủy quân một cách gọn gàng.
Thiết giáp thuyền tập kết dày đặc giống như một bầy cá mập, sau khi Thánh Hỏa Giáo mua được chiến thuyền thì liên quân bờ Nam không dám qua sông gây hấn nữa, Thánh Hỏa Giáo cuối cùng đã có thể mở mày mở mặt, không còn phải chịu ủy khuất.
Bọn họ cũng lộ ra bản tính hung tàn, mỗi ngày đều thao luyện, bất kỳ khi nào cũng có thể xông qua bờ Nam chém giết.
Đặc biệt là quân tiên phong mấy tháng nay chịu nhục huấn luyện càng thêm cuồng nhiệt, Nạp Lan Đức thân là chủ tướng cũng bỏ hết những sinh hoạt ưu việt, ăn uống đều ở trên chiến thuyền. Cho dù Bạch Lan Độ nói rõ là cái chết của Mạt Lý Á Đa không liên quan gì đến y nhưng Nạp Lan Đức vẫn không thể không tự trách. Thân là giám quân của quân tiên phong, vinh nhục của Mạt Lý Á Đa cũng được tính chung với quân tiên phong. Mạt Lý Á Đa bị liên quân bêu đầu thị chúng đã trở thành chuyện cười của đại lục, y là chủ soái quân tiên phong, không thể nào không thoái thác trách nhiệm.
Trừ việc lấy răng đền răng, lấy máu tươi và thắng lợi để vãn hồi danh dự ra thì Nạp Lan Đức không còn con đường nào khác.
Y từ một kỵ sĩ không biết bơi, chỉ trong 1 tháng ngắn ngủi đã trở thành một giao long, đủ thấy nỗ lực bỏ ra gian khổ cỡ nào.
Phong độ ưu nhã y đều quăng mất, Nạp Lan Đức gầy hơn lúc trước, đen hơn lúc trước, ngọn lửa trong mắt càng lúc càng kịch liệt.
..........
Sau đêm ám sát đó, Dương Chính đã biến mất khỏi mắt dân chúng.
Cho dù lần ám sát đó nhờ thủ đoạn lăng lệ của Dương Chính mà hóa giải một cách vô hình, nhưng vẫn khiến cho liên quân giới nghiêm đến cực điểm.
Trong ngoài Tân Nguyệt thành đều được kiểm tra cẩn thận, mỗi một người lai vãng cũng phải chịu kiểm tra nghiêm cách, một khi phát giác có ai khác thường thì liền bắt giam trước, nếu chưa thẩm vấn kỹ càng thì tuyệt không thả ra.
Vì thế nên gián điệp của Thánh Hỏa Giáo còn trà trộn trong thành muốn lấy tin tức cũng vô cùng khó khăn.
Hơn nữa sau đêm đó, Dương Chính trở thành cái tên đầu tiên trong danh sách đen của Thánh Hỏa Giáo, bọn gián điệp nỗ lực muốn tra xét thân thế của hắn nhưng lại không tìm được manh mối gì.
Dương Chính trở thành chủ soái của liên quân là việc mọi người đều biết cả, nhưng vị chủ soái này chưa từng xuất hiện vào lúc thao luyện bao giờ.
Dương Chính mỗi ngày đều thầm lặng xử lý việc công, Khải Ác vẫn phải điều dưỡng, tất cả công tác chỉ huy chiến sự đều đè nặng trên vai hắn.
Cho dù tập đoàn quân sư của Khải Ác có thể giúp đỡ Dương Chính xử lý sự vụ nhưng thân là thống soái, Dương Chính cần phải nắm tình hình của quân đội càng nhiều càng tốt.
Chi quân đội này nửa đường tiếp quản, chỉ huy càng thêm khó khăn, may mà Dương Chính đêm đó phát uy chém chết Mạt Lý Á Đa nên thanh danh lên đến đỉnh điểm, mỗi một tên binh sĩ trong liên quân đều sinh lòng kính sợ nên mệnh lệnh của Dương Chính mới có thể được chấp hành một cách hiệu quả.
Bọn gián điệp không biết Dương Chính mỗi ngày làm gì, hắn thần bí đến nỗi Thánh Hỏa Giáo không biết phải làm thế nào.
Bất kỳ trận chiến nào, song phương đối trận đều muốn hiểu rõ chủ soái của đối thủ, vì tính cách và phương thức chỉ huy của một cá nhân đều có vết tích để lần theo, chiến tranh là nghệ thuật chỉ huy, nhìn thấu được chủ soái đối phương thì có thể chiếm được tiên cơ.
Dương Chính giống như nhân vật xuất hiện từ không khí, trừ việc hắn nắm giữ Kim Mạt Lan Hội và một thân vũ lực thâm bất khả trắc ra, Thánh Hỏa Giáo không còn bất kỳ tư liệu nào về hắn.
Đây cũng là nguyên nhân Thánh Hỏa Giáo trì hoãn chưa dám phát động tiến công.
Bất quá những trận đánh thăm dò quy mô nhỏ thì họ cũng đã triển khai.
Bên ngoài thủy doanh của sông Ni Á Mỗ rất thường xuất hiện thân ảnh của chiến thuyền đối phương để thăm dò hư thực.
Khi ma pháp sư phát động công kích viễn trình quy mô lớn thì họ lập tức rút lui, có lúc hai chi bộ đội của hai bên đụng độ nhau ở giữa sông, vì không có đại quân yểm hộ nên đành phải kịch chiến, song phương đều có thương vong, rất ít khi có một bên toàn thắng.
Chạm trán quy mô nhỏ kiểu này không chỉ có lợi cho việc hiểu biết về chiến lực đối phương đồng thời còn là biện pháp tốt để huấn luyện quân mình.
Hai bên đều không có người chân chính trải qua thủy chiến, chỉ có thể dùng chiến đấu để luyện binh, tích lũy kinh nghiệm.
Tình huống này kéo dài suốt nửa tháng.
Chiến huống đã phát triển tới trình độ mỗi ngày có mười mấy lần đụng độ, nhân số thương vong cũng không còn là vài người mà là mấy chục người, thậm chí có lần còn hơn cả trăm người.
Trừ việc không phát sinh thủy chiến cỡ lớn ra thì chiến tranh vẫn cứ há to cái chậu máu của nó, vô tình thôn phệ sinh mệnh.
Chỉ là, dưới tình huống này Dương Chính vẫn không hề ra mặt.
Sự lặng thầm của hắn khiến cho không ít binh sĩ liên quân cảm thấy bất an, chủ soái của họ rốt cục đang làm gì đây?
Một ngày mùa thu, vụ khí dày đặc, gió lạnh thổi mạnh trên mặt sông, không khí ẩm ướt lan tràn trên bờ sông, binh sĩ đều đứng run rẩy trong gió, khí trời càng lúc càng lạnh báo trước rằng mùa đông rét mướt không còn bao lâu nữa, tiết đông luôn là ác mộng của mỗi một binh sĩ. Con sông Ni Á Mỗ tuy không đóng băng nhưng chiến đấu trên mặt sông vào mùa đông, một khi rơi xuống nước thì hơi lạnh chỉ trong khoảnh khắc đã cướp đi sinh mạng, đến khi đó thì rơi xuống nước có nghĩa là tử vong, thủy tính có giỏi đến đâu cũng thế.
Nhiệt tình chiến đấu có cao hơn nữa thì cũng bị gió lạnh dập tắt.
Trên phong hỏa đài cách Tân Nguyệt thành 30 dặm, mấy binh sĩ liên quân đang canh gác, lạnh đến nỗi môi trắng bệch, thân hình co rút lại.
"Chết tiệt, trời càng lúc càng lạnh, bọn ta lại không thể đốt lửa, sau khi vào đông thì làm sao mà sống đây?" Một lão binh nhìn bầu trời xám xịt than vãn, thanh âm phát ra cũng trở nên run rẩy.
Hai mắt hắn nhìn chăm chú vào một đống củi để giữa đài, ở bên còn có một thùng dầu lửa.
Hai tên binh sĩ khác cũng nhìn chăm chú vào đống củi, loại cảm giác có thể nhìn mà không thể đốt này càng khiến cho họ thêm thống khổ, giống như một tên ăn mày đã bị đói suốt mấy ngày nhìn thấy một cái đùi gà đang nằm trong miệng người khác. Cảm giác này càng khiến họ lạnh rét thêm.
Một tên binh sĩ ôm vai dùng sức nhảy mấy cái, gắng sức không nhìn tới đống củi nữa, bắt đầu cười đùa:"A Đạt ca, huynh nói nếu như chúng ta đốt lửa thì sao?"
Tên lão binh cười trào phúng:"Tiểu tử ngươi đốt đi, làm một trường phong hỏa hí liên quân thì ngươi sẽ nổi danh giống như U Lan vương hậu của Đại Viêm vương triều, ha ha ha..."
Trong lịch sử Bắc đại lục từng xuất hiện Đại Viêm vương triều hùng mạnh phi thường, đó chính là đế chế hùng mạnh nhất, chỉ là vị vua cuối cùng của vương triều này lại là một tên hôn quân vô đạo, vì muốn U Lan vương hậu của mình vui vẻ nên có lần đi săn tới phong hỏa đài, hắn ta châm lửa đốt, kết quả đại quân của phòng tuyến đều phải xuất động. Hơn nữa vị U Lan vương hậu này chính là muội muội của một quốc vương nước chư hầu cố tình cài vào bên cạnh Đại Viêm vương. Lần U Lan vương hậu phong hỏa hí đại quân khiến cho phòng tuyến bị sơ hở, quốc vương nước chư hầu đó liền dẫn quân chiếm lấy vương đô khiến cho Đại Viêm vương triều sụp đổ.
Đây chính là điển cố nổi danh trong lịch sử Bắc đại lục.
A Đạt đối với trình độ học vấn của mình đắc ý phi thường, nhưng Bố Lạp Đức ở phía đối diện sắc mặt trở nên trắng nhợt, đang cầm hai cục đá lửa đánh lửa liên hồi.
Nguyên nhân khiến hắn khẩn trương chính là đá lửa không đánh lửa được.
A Đạt còn chưa định thần đã quát lên:"Bố Lạp Đức, ngươi điên à? Tùy tiện đốt phong hỏa đài phải bị chém đầu đó."
Lúc này tên binh sĩ Khải Kỳ xô A Đạt ra, cầm thùng dầu lửa nói:"Đồ ngốc, ngươi nhìn mặt sông đi, nhanh lên!"
A Đạt quay đầu nhìn lại, mắt tức thì trợn tròn...
Một lát sau, thanh âm to lớn chừng như xuyên phá tầng mây vang lên:"Địch tập!"
Một ngọn lửa cháy rực giữa trời, bay múa giữa cuồng phong, sau đó một ma pháp đạn tín hiệu nổ tung.
Một tên binh sĩ dưới phong hỏa đài giục ngựa chạy điên cuồng về phía Tân Nguyệt thành.
Cách đó hơn 10 dặm, một tòa phong hỏa đài trên núi cũng đã bốc cháy rừng rực...