Giang Sơn Tống Đế

Chương 130: Dời đô




Bắc Phạt ở trong vòng nửa tháng sau khi Hoàn Nhan Lượng chết, phát động toàn diện, lần này do Tiêu Sơn cùng Lý Hiển Trung dẫn binh, lấy Lưỡng Hoài là mặt trận chính.
Ba vạn nhân mã của Trương Chí Hùng Tân Khí Tật cũng đến sát nhập, do Tiêu Sơn quản lý, đội quân của Vương Hữu Trực lại tiến đến Tương Dương. Lang Yên (*đốt phân sói làm khói tín hiệu)lại một lần nữa cháy lên tại vùng đất này.
Bắc Phạt giai đoạn đầu, sĩ khí các nơi tăng vọt, trên khắp cả nước đều là tiếng hô giành lại quêhương, mà chiến đấu cũng hết sức thuận lợi, chiến trận Giang Hoài còn chưa tới mười ngày, đã chiếm được một vài trọng trấn (*trấn quan trọng, về mặt quân sự) như Linh Bích, Hồng Huyền,Túc Châu ven bờ sông Hoài, chiến đấu tiến hành thuận lợi như vậy, lại khiến cho Tiêu Sơn bất ngờ, lại càng không nói đến Triệu Viện cùng những người khác.
Triệu Viện lập tức chỉ thị Tiêu Sơn cùng các tướng lĩnh khác nhanh chóng mở rộng thành quả,nhưng thời điểm Tiêu Sơn đối mặt với tình huống như vậy, rồi lại cảm thấy càng thêm lo lắng,hắn lén lút nói với Đốc quân tiền tuyến Ngu Doãn Văn: “Hiện tại quân Tống tuy nhiều, nhưng phần nhiều là kiêu binh hãn tướng (*binh kiêu ngạo, tướng. hung hãn), thắng liền trắng trợn cầu phong thưởng, lại còn hy vọng có thể tiến vào thành cướp bóc bốn phía, tuy rằng đã cố hết sứchạn chế, nhưng loại tư tưởng này rất không được, sớm hay muộn cũng xảy ra chuyện.”
Ngu Doãn Văn cũng có chút lo lắng: “Hoàn Nhan Ung đã điều động khẩn cấp mười vạn đại quân,lệnh Đại tướng Hột Thạch Liệt Chí Ninh chỉ huy mười vạn đại quân tiến đến Túc Châu, sức chiến đấu của mười vạn đại quân lần này cùng với thiêm quân của Hoàn Nhan Lượng là hoàn toàn bất đồng, lực lượng chiến đấu không thể nào so sánh nổi. Bởi vì liên tục chiến tranh loạn lạc, triều đình đánh thuế rất nặng, dân chúng đã có lời oán thán. Thật lo lắng sẽ xảy ra chuyện!”
Tiêu Sơn lo lắng cái gì cái đó đến, thời điểm hắn phái đội quân của Thiệu Hoành Uyên đi nghênh chiến Đại tướng Kim Quốc Hột Thạch Liệt Chí Ninh, Thiệu Hoành Uyên có chút mất hứng mà ngầm kích động bộ binh: “Trước kia còn là hoàng mao tiểu tử* dưới trướng ta, hiện tại đã thành đại soái thống lĩnh mười vạn binh mã, đều là người quen cũ, vậy mà ban thưởng chẳng đượcbao nhiêu!”
(*ý chỉ tuổi nhỏ k hiểu lý lẽ (ý tứ trêu chọc hoặc khinh thường)
Đội quân dưới trướng Thiệu Hoành Uyên dưới loại bất mãn này của ông mà cảm xúc giảm sút, bắt đầu phát sinh hỗn loạn, có một bộ phận binh sĩ tiến hành châm ngòi, thậm chí cự tuyệt tiếp nhận banthưởng của triều đình, lý do là phần thưởng quá ít.
Kim Quốc thừa cơ vây công, đội quân của Thiệu Hoành Uyên gần như tan rã hoàn toàn, Túc Châu vừa chiếm được không quá ba ngày, lại bị cướp mất.
Thời điểm Tiêu Sơn nghe được tin này, trong lòng cũng không có quá nhiều cảm giác ngoài ý muốn, nhưng lại khiến cho hắn hết sức vui mừng chính là, dưới tình huống toàn quân tan rã thế này, Lý Hổ Thần do mình đề bạt lên, dốc sức chiến đấu ngăn chặn, vớt vát lại được không ít tiền bạc lương thực, lại còn nhanh chóng triệu tập hội binh, tổ chức chống đỡ, khiến cho kết quả chiến sự không đến nỗi mất trắng.
Tại Trung Nguyên, Xuyên Thiểm nơi quân Tống chiến đấu, cũng gặp phải cùng loại vấn đề ở trình độ bất đồng, cũng không có cái loại được người người ủng hộ như phe lạc quan của Trương Tuấn tưởng tượng, trong vòng một tháng có thể xuất hiện tình huống thu phục được cố hương.
Hai bên rơi vào giằng co, căng thẳng không thôi, vừa lúc đó, Hoàn Nhan Ung lại lần nữa đưa tới thưnghị hòa, nguyện ý thay đổi một số hiệp ước bất bình đẳng trong Thiệu Hưng Nghị Hòa lúc trước,đem quân thần quốc gia đổi thành quan hệ thúc chất, của cải cống nạp hàng năm cũng được giảm bớt, nhưng vẫn yêu cầu quân Tống trước mắt trả lại địa bàn Kim Quốc đã chiếm được lúc đầu.
Lúc này điều Tiêu Sơn lo lắng nhất không phải tình hình ở tiền tuyến, mà là thái độ của Triệu Viện,hắn rất lo lắng Triệu Viện ở loại tình huống này mà đánh mất tự tin, cho nên cố ý ở lại Kiến Khang mộtchuyến, hy vọng có thể dùng hết tất cả phương pháp cổ vũ Triệu Viện, lại khiến y không nên nản chí.
Nhưng vượt ra khỏi dự liệu của Tiêu Sơn, Triệu Viện cũng không giống như trong lịch sử trở nên tinh thần sa sút bối rối hoang mang, ngược lại càng thêm kiên định với niềm tin trong lòng.
Triệu Viện đứng trên thành lâu Kiến Khang, nắm tay Tiêu Sơn, nói: “Ta đã làm xong chuẩn bị bạitrận. Thất bại cũng không phải là chuyện gì xấu, ngược lại còn khiến ta càng thêm nhìn rõ tìnhthế, đã biết nhược điểm cùng những nơi cần thay đổi của quân ta, lại khiến ta hình thành được mục tiêu kế tiếp!”
Lúc này, Tiêu Sơn thầm thở phào nhẹ nhõm, hắn hơi quay đầu, nhìn thấy biểu cảm trên mặt Triệu Viện, căn bản không có nửa điểm uể oải chán chường của bại trận, ngược lại, ánh mắt y càng thêm kiên định, càng thêm tự tin.
Thời điểm đối mặt với thư thỉnh hòa của Kim Quốc, Triệu Viện nghe theo đề nghị của Tiêu Sơn cùng Ngu Doãn Văn: Nếu như quân Kim có năng lực chiếm được triều đình của ta, thì căn bản sẽ không cầu hòa, mà là trực tiếp xuất binh. Bệ hạ căn bản không cần phải đồng ý nghị hòa, chiến hay hòa không phải do Quân chủ hai bên quyết định dựa vào một bản công văn, mà là quyết định dựa vào thực lực của hai bên.
Ngày đó, Triệu Viện cùng Tiêu Sơn ngẩn người trên thành lâu trọn vẹn một ngày, thẳng đến khi trờichiều ngã về Tây, y bỗng nhiên quay đầu lại, nhìn Tiêu Sơn, dùng giọng điệu quả quyết nói: “Chỉ cầncó ngươi ở bên cạnh, ta không sợ bất luận thất bại nào cả! Càng không có bất luận dao động!”
Thế cục quả nhiên như dự đoán của Tiêu Sơn cùng Ngu Doãn Văn, Hoàn Nhan Ung cũng không vì Triệu Viện cự tuyệt đàm phán hòa bình mà trắng trợn tiến Nam, hiện tại Kim Quốc hỗn loạn, gã cũng không thể tiến hành xuôi Nam lần nữa, chỉ có thể đóng trọng binh tại hai quân giằng co. Mà Tiêu Sơn cũng thừa dịp này gấp rút chỉnh đốn quân đội, bởi vì đội ngũ của Thiệu Hoành Uyên tan rã, hắn đã có lý do để thay máu (*tổ chức lại, thiế t lập lại) đội ngũ lần thứ hai, đem binh sĩ tan rã sắp xếp vào đội ngũ của Tân Khí Tật, lại thỉnh thoảng khơi mào xung đột quy mô nhỏ, dùng để diễn tập chiến đấu thực tế, tăng cường tố chất cùng năng lực tác chiến cho đội quân.
Thời điểm Tiêu Sơn tích cực chuẩn bị, Triệu Viện cũng không dừng tay, y cũng không bị ảnh hưởng bởi phe chủ hòa của đám người Sử Hạo, Triệu Cấu trong triều, ngược lại còn bắt đầu cải tiến vũ khí quy mô lớn, chỉnh đốn kinh tế, liêm chính thanh minh, chăm lo việc nước. Y thậm chí cũng không trở về Lâm An, mà vẫn một mực ở lại Kiến Khang, thừa dịp chiến tranh mang đến tổn hại cùng hỗn loạn, cật lực đề bạt một số quan viên có biểu hiện tốt vào lúc này, lại giáng chức rất nhiều quan viên chỉ thích nói suông mà không có chút thành tích.
Loại cải cách này, trong thời kỳ hòa bình dĩ nhiên sẽ đưa tới rất nhiều vấn đề cùng suy xét lợi ích vềmọi mặt, thậm chí ngay cả khi đã nắm được nhược điểm của người mà bản thân muốn xử lý cũng phảitrắc trở đánh hay không, gắng sức bày mưu giở thủ đoạn mới có thể làm được, nhưng tại thời kỳ đặcthù như thế này, tức thì đơn giản hơn rất nhiều.
Chẳng những thế, Tiêu Sơn còn có thể định kỳ chọn phái đi một vài tướng lĩnh, đưa về Kiến Khang tiến hành giáo dục, từ tố chất lãnh đạo cho đến tư tưởng đều cố gắng cải thiện toàn diện.
Tại thời điểm Triệu Viện tiến hành một loạt cải cách và chỉnh đốn, Hoàn Nhan Ung của Kim Quốc cũng không nhàn rỗi, gã vốn chuẩn bị sau khi Tống Kim nghị hòa liền hạ lệnh chiêu an (*Gọi về và sắp đặt đời sống cho yên.), giảm bớt thuế má, có thể khiến cho dân chúng lưu lạc khắp Trung Nguyên trở về đồng ruộng làm ăn, nhưng bởi vì quân Tống tại biên cảnh không ngừng khiêu khích, gã không dám rút đại quân về, muốn duy trì binh lực, tức thì không thể không gia tăng thuế má.
Thời điểm này, chênh lệch kinh tế giữa hai nước Tống Kim bắt đầu hiện ra.
Hai nơi Giang Nam Tứ Xuyên, thời kỳ Bắc Tống đã trở thành trung tâm kinh tế của cả nước, Trung Nguyên trải qua chiến loạn, hiện thuộc sở hữu của Kim Quốc, vốn là nơi nghèo túng lại phải tăng thuthuế má, ngược lại khiến cho nhiều người không ngừng vào rừng làm cướp.
Tại phương diện dùng người, Hoàn Nhan Ung gặp phải không ít khó khăn, số lượng người Nữ Chân tương đối ít, phần lớn đại thần giữ chức trong triều đều là người Hán, nhưng bởi vì Triệu Viện một mực biểu hiện không nghị hòa, chính là tư thái muốn Bắc Phạt, những người Hán này tâm tư dao động, không biết lúc nào quân Tống sẽ đánh tới, bản thân có nên làm Hán gian hay không, có nên góp sức hay không, làm tốt rồi tương lai có thể có một ngày bị tính nợ cũ hay không, cũng là một vấn đề rất lớn.
Bởi vì Tiêu Sơn tập trung về cung cấp chế tạo vũ khí, quân giám sát binh khí Tống Triều gần như là mỗi ngày đều có thành quả mới, mà vũ khí của Kim Quốc, ngoại trừ lấy được hỏa khí mới*,phần lớn vẫn dừng lại ở trình độ trường mâu cung tên cùng giáp sắt.
(*Nguyên cái câuì thế này除了弄到的新火气的一鳞片抓之外 T^T.)
Theo thời gian chậm rãi trôi qua, quốc lực (* thực lực q uốc g ia) của hai bên dưới loại tình huống này, cũng bắt đầu chậm rãi thay đổi. Trong mấy năm liên tục khẩn trương giằng co, nhanh chóng phát triển một nhóm tướng lĩnh cùng binh sĩ được huấn luyện thành thục
Năm năm sau, Tiêu Sơn ba mươi mốt tuổi, Triệu Viện cho hắn tạm thời dời vào nội cung Kiến Khang,nghị sự tại tẩm các.
Chỉ đơn thuần là nghị sự, Triệu Viện quyết định đem binh lực cả nước, giao cho Tiêu Sơn quản quản lý điều động, lần nữa phát động Bắc Phạt!
Bắc Phạt lần này không còn là hành động quân sự mạo hiểm đơn thuần, mà là hai nước so đấuthực lực, tại thời điểm mới bắt đầu, Tiêu Sơn đánh đến vô cùng khó khăn, thậm chí còn có tìnhhuống giành lại được một thành trì lại bị quân Kim chiếm mất, cứ lấy đi đoạt lại năm sáu lần,trong chiến tranh, cũng không phải tất cả chiến dịch đều là thắng lợi, cũng có chiến dịch thất bại.
Nhưng hiện tại, đại bộ phận binh sĩ cùng đại thần, đều đối với thất bại lặp đi lặp lại này, đã có sự nhậnthức sáng suốt, thất bại sẽ nhanh chóng điều chỉnh bố trí hành động, lần nữa xông lên.
Bắc Phạt tháng thứ sáu, Tiêu Sơn thống lĩnh năm mươi vạn binh lực quân Tống, sau khi huyết chiến ba ngày ba đêm, một trận liền giành lại được cựu đô Khai Phong.
Thế trận Trung Nguyên rất nhanh đã thay đổi, không đến một tháng, quân Kim thất bại toàn diện, tin tức các nơi đều là thắng lợi, giống như bông tuyết hạ xuống bàn Triệu Viện.
Trong những tin tức này, phấn khởi nhất chính là Kim quốc Hoàn Nhan Ung tỏ vẻ nguyện ý trả lại Mạt đế* Triệu Hoàn hiện vẫn còn đang ở Ngũ Quốc Thành – Bắc Tống, hy vọng hai bên có thể dừng tay, lấy biên cảnh Bắc Tống làm ranh giới, hai bên là nước láng giềng, không còn đòi của cải cống nạp hàng năm.
(*末帝 Tên gọi của các vị vua mất nước)ĩ
Thời điểm Triệu Viện nhìn thấy Hoàng đế Kim quốc rốt cuộc buông tha cho yêu cầu cống nạp hàng năm, không khỏi cười ha hả, nói với tùy tùng bên cạnh: “Đã bảy tám năm không nạp rồi, đây là Hoàn Nhan Ung biết không thể quay lại, mới nói thế này!”
Trong mấy năm này, Trương Tuấn bởi vì tuổi cao, đã chết bệnh, Sử Hạo cũng bởi vì ra sức chủhòa bị phong thành Thái Sư không có thực quyền, Tể tướng hiện tại là Ngu Doãn Văn trong lúc Bắc Phạt giành được uy vọng cùng thanh danh, phó tướng tham gia chính sự còn lại là Trần Tuấn Khanh được biết đến là người là cương trực ngay thẳng.
Lúc này Ngu Doãn Văn đang ở bên cạnh Triệu Viện, nghe Triệu Viện nói vậy, cũng cười nói: “Bệ hạchuẩn bị lúc nào rời đi?”
Triệu Viện sững sờ, lập tức bừng tỉnh, chính mình rốt cuộc có thể trở về cố đô Biện Kinh rồi.Thời kỳ Tĩnh Khang, Biện Kinh rơi vào tay giặc, thời gian đã qua ba mươi hai năm, một lần nữa giành lại.
Triệu Viện khẽ nâng mắt, trong điện không có cái người mà bản thân muốn nhìn thấy nhất,người kia có lẽ hiện tại đang đóng giữ ở Hà Bắc – biên giới Tống Kim, nhưng bản thân hy vọngthời điểm trở về Biện Kinh, người kia có thể đứng ở vị trí gần mình nhất.
Một lúc sau Triệu Viện mới nói: “Viết thư hỏi Chính Bình một chút, xem hắn lúc nào có thời gian, trẫmmuốn cùng hắn trở về cố đô.”
Ngu Doãn Văn nghe thấy lời này của Triệu Viện, trong lòng thở dài, khom người nói: “Thần tuân chỉ,sẽ phái người đến hỏi Tiêu tướng.”
Lúc Tiêu Sơn nhận được thư của Ngu Doãn Văn, đang đứng tại bình nguyên (*đồng bằng) Hà Bắcnhìn về Yên Kinh* (*Bắc Kinh thời nay) nơi xa, cũng chính là thủ đô thời hậu thế.
Thời đại này Yên Kinh không có bao nhiêu người, bởi vì từ khi bắt đầu thời kỳ Ngũ Đại, khu vực Yên Vân đang bị Liêu Quốc nắm giữ, cho đến sau khi Kim diệt Liêu, tức thì nhập vào địa bàn của Kim Quốc, mấy trăm năm cũng không thuộc về Tống.
Nhưng thời điểm Tiêu Sơn đứng ở bình nguyên Hà Bắc, tuy rằng nhìn không tới thành trì Bắc Kinh, nhưng chỉ cần nhìn về phía kia, trong lòng liền có một loại xúc động cùng tình cảm kỳ lạ.
Kiếp trước của hắn từ đi lính, đến được đề bạt*, đến sau này khi tiến vào đại học Quốc phòng, đều ở Bắc Kinh. Trong cảm nhận của hắn, nơi đây mới thật sự là thủ đô cùng trái tim. Hắn thậm chí có thể nhớlại, tào phớ Bắc Kinh cùng con người và mùa xuân ở Vương Phủ Tỉnh*. Những ký ức này đã sớm đóng chặt trong trí nhớ của hắn, nhưng hiện tại rồi lại vô tình ùa ra. Hắn hiểu được Yên Kinh lúc nàycùng hậu thế là hoàn toàn khác nhau, nhưng hắn vẫn có thể phác họa ra khung cảnh của Trường Thành, Bát Đại Lĩnh, Sơn Hải Quan một cách rõ ràng.
(*Nguyên văn là 提干nói chung là trong lúc làm lính có biểu hiện xuất sắc nên sau khi tốt nghiệp đc cử đi học ở viện quân sự.)
(**Là một trong những phố mua sắm nổi tiếng nhất của Bắc Kinh. Vào thời nhà Thanh, 8 khu nhà quý tộc và công chúa đã được xây ở đây sau khi một giếng nước ngọt đầy nước được phát hiện ở đây, do đó tên phố là “Vương Phủ” (nơi ở của bậc vương) và “Tỉnh” nghĩa là “giếng”.),
Tiêu Sơn có chút sững sờ, năm đó mộng tưởng khi xuyên qua thời không này, hôm nay đã thực hiện được, nhưng không biết vì cái gì, lại càng cảm thấy bất an. Có lẽ là nghĩ tới mấy chục năm sau – Thành Cát Tư Hãn càn quét đại lục Á Âu, có lẽ là nghĩ đến lịch sử ô nhục của Trung Quốc cận đại, hoặc có lẽ là nghĩ tới đủ loại sự tình của Thiên Triều, hắn cũng không rõ lắm. Chẳng qua là hắn thích đứng trên thành lâu Chân Định, nhìn về phương Bắc tưởng như quen thuộc rồi lại là nơi chưa từng đặt chân đến trong thế giới này.
Ngũ Loan nhận được thư của Ngu Doãn Văn, chờ đến khi y leo lên thành lâu, đi tìm Tiêu Sơn, thấychính là một cảnh như vậy.
Tướng quân một thân thiết giáp hôi bào (*áo choàng màu tro), tay vịn thành lâu lạnh lẽo, bất động nhìn về phương Bắc, giống như một pho tượng trong ánh trời chiều.
Ngũ Loan đi qua: “Tướng quân, triều đình có thư.”
Ban đầu Tiêu Sơn không quen xưng hô kiểu này, nhưng đã nhiều năm như vậy, hắn đối với xưnghô này đã không còn xoắn xuýt như lúc trước, hắn cũng không quay người, chỉ hỏi: “Viết gì?”
Ngũ Loan nói: “Bệ hạ hỏi người, lúc nào có thời gian, quay về Kiến Khang một chuyến, triều đìnhchuẩn bị dời đô đến cựu kinh.”
Tiêu Sơn ừ một tiếng, gật đầu, khóe môi băng lãnh dần hòa tan, hơi nhếch lên, một nụ cười hiện lên trên mặt hắn. Đã mấy tháng chưa nhìn thấy Triệu Viện rồi, trong lòng rất nhớ y.
Đến bây giờ Tiêu Sơn cùng Triệu Viện đã cùng nhau bảy tám năm rồi, lúc trước thời điểm chỉ cầnnghĩ tới Triệu Viện liền có loại xúc động muốn đè y xuống như thế nào cũng áp chế không nổi, rốtcuộc đã chậm rãi nhạt đi, nhưng lại nhiều hơn một phần ấm áp cùng lo lắng, những năm này chínhmình vẫn luôn không có nhà, thời điểm nhìn thấy người chung quanh lần lượt kết hôn, con cái thànhhàng, Tiêu Sơn có chút hâm mộ, nhưng chỉ cần vừa nghĩ tới Triệu Viện, liền cảm giác chỉ cần có thể ở bên cạnh y là đủ, che chở bảo vệ y, là kết cục tốt nhất của mình.
Triệu Viện hôm nay, kết cục khẳng định bất đồng với cái người uất ức mà chết trong thâm cung của lịch sử. Đương nhiên sẽ khác, Triệu Viện Bắc Phạt thành công, đoạt lại được cựu kinh, cho dù mình đi đâu đến đâu, nghe đều là lời tán thưởng từ tận đáy lòng của dân chúng cùng binh sĩ,thậm chí còn có người dựa vào chuyện Triệu Viện là con cháu của Triệu Khuông Dận (*赵匡胤),biên ra không ít chuyện thần thoại cùng truyền kỳ. Hiện tại Triệu Viện nói một câu, lập tức trởthành thánh chỉ, không người nào dám cãi lời, cũng không có ai muốn cãi lời. Uy vọng của y trong mấy đời Tống Đế, trở thành Thánh Minh (* sáng suốt như thánh) Thiên tử chân chính trong miệng dân chúng.
Chỉ cần nghĩ đến bốn chữ “Thánh Minh Thiên Tử”, cũng có một phần công lao của mình, Tiêu Sơn liền không nhịn được hơi cong khóe miệng. Chỗ nào có y, nơi đó là nhà.
Tiêu Sơn không ở lại Chân Định quá lâu, đến đêm liền dẫn nghìn kỵ binh trở lại Kiến Khang, dọc đường đi cũng không đi quá nhanh, thậm chí có cơ hội còn nhìn ngắm phong cảnh xung quanh.Hắn cũng không nóng nảy đi gặp Triệu Viện, bởi vì về sau hai người sẽ còn rất nhiều rất nhiềuthời gian.
Mười ngày sau Tiêu Sơn đến Kiến Khang, sau khi gặp mặt Triệu Viện, liền ở lại tẩm các.
Loại chuyện này cũng không phải lần một lần hai, đã đến tình trạng này, hai người cũng không còn cố kỵ thân tín bên cạnh nữa rồi, Tiêu Sơn ôm Triệu Viện, ôn nhu hôn y, dùng phương thức cùng tiết tấu khiến đối phương vui thích, chậm rãi ra vào. Cho dù Tiêu Sơn hiện tại đã không đến mức lập tức bắn,cũng không còn giày vò suốt đêm vẫn không mệt mỏi, nhưng thời điểm hắn ôm Triệu Viện, cảmthấy tình cảm không hề giảm sút, ngược lại càng thâm sâu, phảng phất giống như loại rượu cất lâunăm, mặc dù không kích thích giống rượu mạnh cay nồng, nhưng lại khiến người ta càng thêm say mê yêu thích không buông tay.
Ba ngày sau cỗ kiệu của Triệu Viện chính thức khởi hành, bởi vì là dời đô đến cựu kinh, đội ngũtrùng trùng điệp điệp, chỉ là đội ngũ cầm cờ, đã trên vạn người, càng không cần phải nói đến rất nhiều quan viên cùng hậu cung nữ quyến, còn có thân là Thái thượng hoàng Triệu Cấu nữa.
Lần này khởi hành trọn vẹn một tháng, mới đến Biện Kinh.
Thời điểm đến Biện Kinh, đúng vào buổi sáng mùa xuân tháng ba, quan viên thành Biện Kinh đã sớm nhận được tin Hoàng đế dời đô, Hoàng cung tại Tĩnh Khang trong thời kỳ chiến hỏa đã bị hư hại rất nhiều, không còn chút bóng dáng của ngày xưa, nhưng về sau khi Hoàn Nhan Lượng xâm lược phía Nam đã từng phung phí tu sửa qua một lần, so với Hoàng cung Bắc Tống thì càng thêm tráng lệ.
Triệu Viện trong tiếng hô của bách quan cùng dân chúng hai bên đường mà tiến vào Hoàng cung, Thái Cực Điện vang tiếng tấu nhạc, Triệu Viện đội miện quan mặc áo bào thêu nhật nguyệt thập nhị hoa chương*, đứng trong đại điện, tiếp nhận cái lạy của vạn dân, y đã sớm không còn bộ dạng của thiếu niên năm đó, Triệu Viện ba mươi hai tuổi thoạt nhìn càng thêmtrầm ổn, trên mặt hiện ra thần sắc kiên nghị. Duy chỉ có ánh mắt của y, thời điểm rơi vào người Tiêu Sơn đang đứng trước đội ngũ, trong đó là ôn nhu cùng quyến luyến, giống như trước kia.
(Trung Quốc xưa trên lễ phục của đế vương cùng quan viên bậc cao có thêu mười hai loại hoa văn trang trí.)
“Các khanh bình thân!” Giọng nói uy nghiêm của Triệu Viện vang vọng khắp đại điện, “Đại Tốngta có thể giành lại cố đô, nỗi nhục được rửa sạch, là niềm vui của quốc gia. Bắt đầu từ hôm nay nghỉ ba ngày, không cần tảo triều!”
Cùng ngày, Triệu Viện giống như những bậc đế vương trước kia của Đại Tống, duyệt binh vùng ngoại ô, Tiêu Sơn dẫn hai mươi vạn đại quân đóng trong Kinh, theo thứ tự đi đến trước mặt Triệu Viện, hô vạn tuế, quân uy hùng dũng, vô cùng chói mắt.
Ngày hôm sau là hưu mộc, Triệu Viện sai người truyền Tiêu Sơn vào cung, hai người sóng vai, dưới gốc liễu trong Hoàng cung Biện Kinh, mắt hướng về nhau, thái giám cung nữ chung quanh đều thứcthời lui ra, để cho hai người không gian riêng.
Hai người liền hôn môi dưới ánh mặt trời ngày xuân, xung quanh là mùi hoa thơm ngát, tiếng chim êmtai, nụ hôn này phá lệ ngọt ngào, dù có ngàn lần vạn lần cũng không chán ghét.
Tiêu Sơn dùng mũi mình cọ cọ mũi Triệu Viện: “Viện Viện, ta yêu ngươi!”
Triệu Viện vẫn mỉm cười như cũ, lúc này đây y không giống như những lần trước, dùng “Ta biết,ngươi đã nói rất nhiều lần rồi” để trả lời, mà là sau khi nhìn Tiêu Sơn một lúc lâu, trịnh trọng nói: “Ta cũng yêu ngươi!”
Hai người ôm nhau thật chặt, nụ hôn dường như vĩnh viễn sẽ không đứt đoạn.
Tiêu Sơn cảm thấy Triệu Viện trong ngực hôm nay đặc biệt đẹp, hắn theo môi Triệu Viện hôn thẳng một đường xuống dưới, bắt đầu mở ra đai lưng của đối phương.
Nhưng rồi vào lúc đó, sau bóng cây bỗng truyền đến một tiếng ho khan, Tiêu Sơn cùng Triệu Viện đều giật mình, cùng nhau nhìn qua, đã thấy một người mái tóc hoa râm bước ra.
Không phải ai khác, chính là người vừa cùng Triệu Viện trở lại cựu kinh, trở lại chốn cũ – Thái thượnghoàng Triệu Cấu.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.