Đông Cung Tàng Kiều

Chương 63: Phiên ngoại




Năm Tân Triều thứ hai mươi bảy, Ngụy Cao đế thoái vị, Thái tử Chu Dục đăng cơ kế vị, định niên hiệu là “Thịnh Bình”, ngụ ý “Thịnh thế thái bình.”
Năm Thịnh Bình thứ ba, Đại Ngụy trong thời kỳ tân chính đã hiện lên một cảnh tượng thịnh thế thịnh vượng phồn vinh.
Ngự Thư phòng, một số đại thần đứng dậy xin thiên tử sau ngự án cáo lui, rồi lướt qua Thống lĩnh cấm quân Triệu Đà vừa phục mệnh bên ngoài trở về.
Triệu Đà mang theo mệt mỏi sau một quãng đường dài bước vào Ngự Thư phòng. Hắn hành lễ với Chu Dục xong, rồi kích động nói: “Bệ hạ, thần đã tìm được người rồi.”
Ngự bút trong tay của Chu Dục ngừng đột ngột, khiến chiếu chỉ dưới tay hắn bị nhiễm một vệt mực.
Hắn bình tĩnh gác bút lại, rồi bảo Triệu Đà đứng dậy rồi nói: “Người đang ở nơi nào?”
“Bẩm bệ hạ, người đang ở Dương Châu.”
Dương Châu là quê hương của Vệ Chiêu, nên việc này cũng hoàn toàn không có gì bất ngờ.
Mấy năm nay, Chu Dục ngoài chăm lo việc nước, đồng thời cũng chưa bao giờ quên phái người đi tìm Vệ Chiêu.
Trong trận hỏa hoạn ở Đông cung năm đó quả thực có một người đã chết, nhưng khi nghiệm thi thì tử thi không phải là của một nữ tử mà là của một thái giám.
Lúc đó, Ngụy Cao đế còn chưa thoái vị, Đặng Trung lại bị giáng chức đi thủ hoàng lăng. Vì bảo vệ Vệ Chiêu, một thái tử như hắn chỉ có thể đè ép không nhắc tới việc này, rồi tuyên bố với bên ngoài Vệ Lương viện đã chết trong trận hỏa hoạn.
Mãi cho đến khi Ngụy Cao đế băng hà, Chu Dục mới phái người đi tìm tung tích của Vệ Chiêu.
Đáng tiếc việc này đã qua quá lâu rồi, nên rất khó để tra ra.
Chu Dục chỉ đành phái người theo dõi sát sao Đặng Trung.
Theo dõi hơn một năm, rốt cuộc cũng tìm ra sơ hở của hắn.
“Hóa ra bốn năm trước, Đặng Trung đã lén đưa Lương viện xuất cung, trước đưa người theo đường thủy đi về hướng đông ra biển rồi cập bến lên bờ tại nước Cao Ly, sau đó lộ trình thay đổi nhiều lần theo đường thủy và đường bộ, mới đến Dương Châu, cũng khó trách chúng ta dùng cách nào cũng không thể tra ra được.”
“Bây giờ Lương viện đã định cư ở Dương Châu, còn mở một tiệm ăn nhỏ, xung quanh có người của Đặng Trung bí mật bảo vệ, thần không thể bứt dây động động rừng.”
“Tiệm ăn nhỏ?” Chu Dục nắm chặt ngự bút trong tay, đôi môi khẽ nhếch lên.
Vệ Chiêu là một nữ tử mà phải xuất đầu lộ diện bên ngoài để kiếm sống, nói vậy nàng sống khá cực khổ.
Triệu Đà nhìn mặt đoán ý, vội vàng nói: “Bệ hạ yên tâm, thuộc hạ đã phái người ẩn nấp xung quanh, sẽ không có kẻ nào dám vô lễ đối với Vệ Lương viện.”
Lúc này thần sắc của Chu Dục mới hòa hoãn trở lại: “Nàng làm những đồ ăn gì?”
Triệu Đà suy nghĩ một chút, “Chủ yếu là điểm tâm, thần nghe khách nhân lui tới nói rằng món bánh hoa quế ở đấy rất ngon.”
“Bánh hoa quế?” Chu Dục lẩm bẩm nói.
Triệu Đà báo cáo xong xuôi, rồi tiếp tục xin chỉ thị: “Bệ hạ, thần có cần đưa Lương viện về hay không?”
Muốn đưa Vệ Chiêu về không?
Đương nhiên là hắn muốn, đây không phải là mong muốn ngày nhớ đêm mong, thiên tư vạn tưởng của hắn hay sao?
Cơ hội đang ở trước mắt, nhưng Chu Dục lại do dự.
Hắn suy nghĩ một hồi rồi mới mở miệng nói: “Ngươi mang bánh hoa quế do nàng làm về đây?”
Triệu Đà sửng sốt: “Chỉ bánh hoa quế thôi sao?”
Chu Dục ngẩng đầu nhìn hắn, Triệu Đà vội vàng cúi đầu nói: “Thuộc hạ tuân mệnh, thuộc hạ lập tức đi làm.”
“Chờ đã. “Thiên từ ngồi trên ngự tọa tựa hồ lại muốn thay đổi ý định.
Triệu Đà quay người lại, hy vọng nhìn hắn.
Không ngờ Chu Dục chỉ phân phó thêm: “Lúc trở lại ngươi qua hoàng lăng một chuyến, thay trẫm hỏi Đặng Trung, tại sao năm đó hắn lại muốn lừa gạt trẫm?”
Triệu Đà: “… Thần tuân lệnh.”
Nửa tháng sau, Triệu Đà mệt mỏi quay về Lạc Dương, cùng trở về với hắn còn có món bánh hoa quế của Dương Châu.
“Thuộc hạ một đường thúc ngựa liên tục, không dám nghỉ ngơi, cũng may là khí trời đang khá lạnh, khả năng vẫn có thể ăn được.”
Triệu Đà lấy ra một túi giấy dầu, dâng lên ngự án. Hắn thấy thiên tử cũng không vội mở túi ra, nên lui lại phía sau mấy bước, cúi đầu rũ mắt nói: “Thần cũng đã đến hoàng lăng gặp Đặng Trung.”
Ánh mắt của Chu Dục chuyển từ túi giấy sang Triệu Đà.
“Đặng Trung nói…” Triệu Đà lưỡng lự một chút rồi tiếp tục nói: “Hắn nói hắn chưa từng lừa gạt bệ hạ, Lương viện quả thực đã từng nói là nguyện kiếp sau gặp lại bệ hạ.”
Chu Dục nghe vậy, quăng tấu chương tay xuống ngự án: “Kiếp sau? Vệ Chiêu rõ ràng còn sống, nhưng phải tới tận kiếp sau mới gặp lại trẫm sao?”
Thiên tử đăng cơ đã ba năm, bản sắc vốn có của một đế vương đã lộ diện hết, không một ai dám chống đối hắn, hành động này của Đặng Trung khác nào động thủ trên đầu thái tuế.
“Triệu Đà, ngươi nói xem, trẫm là thiên tử, muốn cái gì mà không chiếm được, nhưng hết lần này tới lần khác luôn phải đi mong chờ vào một cái kiếp sau mù mịt hư vô?”
Triệu Đà không dám nhìn vào mắt của thiên tử, thấp giọng nói: “Bệ hạ, không bằng để thần đưa Lương viện về.”
Lời này vừa dứt, Chu Dục lại nhắm mắt lại, tựa vào ngự tọa không nói câu nào.
Triệu Đà không hiểu hắn có ý gì, chỉ đành phải im lặng đợi trong điện.
Một lát sau, Chu Dục mới mở mắt ra hỏi: “Bây giờ nàng ấy sống thế nào?”
Triệu Đà cân nhắc rồi đáp lại: “Thần nghe ám vệ mua bánh hoa quế nói lại, khí sắc của Lương viện vô cùng tốt, mỗi ngày có rất nhiều khách nhân đến mua điểm tâm, nhưng ngài ấy đều nở nụ cười vui vẻ đón tiếp.”
“Phải không?” Chu Dục tự lẩm bẩm.
Hắn chuyển tầm mắt về phía túi giấy, lấy một miếng bánh từ trong ra.
Hắn lấy một miếng nhỏ bỏ vào miệng, chậm rãi ăn.
Khi trong lòng cảm thấy khổ sở, ăn một chút bánh ngọt thì cũng không còn cảm thấy khổ sở nữa.
Ăn xong, Chu Dục lại lẩm nói: “Quả nhiên.”
Triệu Đà không hiểu thánh ý, nên xin chỉ thị một lần nữa: “Bệ hạ, có cần thần đi Dương Châu đưa Lương vệ về?”
Chu Dục nhìn bánh hoa quế trong túi giấy, thản nhiên lắc đầu nói: “Không cần.”
“Nếu nàng trở lại chốn hoàng cung này, trẫm chỉ sợ sẽ không còn được ăn bánh hoa quế ngon như vậy nữa.”
Một lời của thiên tử, tứ mã nan truy.
Trên gương mặt của Triệu Đà hiện lên sự tiếc nuối. Hắn chỉ đành đứng dậy xin cáo lui, chậm rãi rời khỏi thư phòng.
Bên trong thư phòng cũng không ai khác nữa. Chu Dục ngồi trên ngự tọa, nhìn bánh hoa quế cười khổ.
“Quả nhiên đều là gạt người.”
Khi trong lòng cảm thấy khổ sở, thì ăn cái gì cũng vẫn cảm thấy khổ sở.
Sau khi Triệu Đà rời đi, Đại cung nữ Tử Quyên của Càn Thanh cung dẫn người đến dâng trà. Tiểu cung nữ bưng khay trà đi theo phía sau nàng khi nhìn thấy túi bánh hoa quế trên ngự án, không kìm được hô lên một tiếng.
Chu Dục quay đầu lại nhìn.
Tử Quyên vội vàng kéo tiểu cung nữ kia quỳ xuống đất tạ tội, “Bệ hạ thứ tội.”
Tiểu cung nữ vô cùng hoảng sợ nói: “Bệ hạ tha tội cho nô tỳ, nô tỳ nhìn thấy món ăn của quê hương nên nhất thời không kìm lòng được.”
Chu Dục nhìn về phía Tử Quyên: “Cung nữ này mới tiến cung?”
Tử Quyên rũ mắt trả lời: “Bẩm bệ hạ, nàng ta vừa mới tiến cung trong năm nay, Lý ma ma để nàng ta đi theo nô tỳ học hỏi cách dâng trà.”
Chu Dục lại hỏi: “Nàng ta là người ở đâu?”
Tử Quyên lưỡng lự một hồi rồi nói: “Nàng ta là người Dương Châu, cũng là đồng hương với nô tỳ.”
Chu Dục nghe được hai chữ “Dương Châu”, quay đầu nhìn về phía tiểu cung nữ kia: “Ngươi nói đây là món ăn của quê hương ngươi, vậy ngươi biết làm món bánh này?”
Tử Quyên nhìn thoáng qua tiểu cung nữ kia, tiểu cung nữ kia vội vã đáp: “Nô tỳ biết làm ạ.”
Chu Dục gật đầu, thản nhiên nói: “Tốt, vậy ngươi đi làm bánh hoa quế cho trẫm, trẫm sẽ tha tội cho ngươi.”
Tiểu cung nữ vui vẻ vô cùng, quay đầu nhìn Tử Quyên. Tử Quyên vội vàng kéo nàng tạ ơn: “Nô tỳ tạ ơn bệ hạ.”
Khi ra khỏi điện, Tử Quyên thở phào nhẹ nhõm, rồi ân cần dạy bảo tiểu cung nữ kia: “Cũng may là bệ hạ không trách tội, về sau không được to gan như vậy nữa.”
Tiểu cung nữ cười híp mắt nói: “Nô tỳ đã hiểu, nô tỳ cảm ơn Tử Quyên cô cô.”
“Nhanh đi làm bánh hoa quế đi.”
Khi món bánh hoa quế được đặt lên ngự án, thiên tử lại không có ý định muốn ăn, mà lại hỏi: “Dương Châu có đẹp không?”
Khi Tử Quyên đang sửng sốt, tiểu cung kia đã giành lời nói trước: “Bẩm bệ hạ, Dương Châu đẹp vô cùng.”
Tiểu cung nữ kia rốt cuộc tuổi còn nhỏ, những lời vừa dạy dỗ còn chưa kịp ghi nhớ, có người nhắc tới quê hương là đã mở miệng nói luôn.
Nói xong, nàng còn hiếu kỳ hỏi: “Bệ hạ chưa từng đến Dương Châu sao?”
Tử Quyên liếc mắt cảnh cáo nàng, tiểu cung nữ vội vàng che miệng lại.
Thiên tử lắc đầu với Tử Quyên, ý bảo không có việc gì, rồi nói với tiểu cung nữ kia: “Quê hương đẹp như vậy, nhất định khiến ngươi không nỡ rời đi.”
“Còn không phải sao, nô tỳ rời nhà đã sắp một năm, ngày đêm đều muốn trở về.”
Lời còn chưa nói hết, đã bị Tử Quyên kéo quỳ xuống.
Tử Quyên sợ hãi nói: “Nàng ta không phải là cảm thấy trong cung cung không tốt, mà chỉ có chút nhớ quê nhà, kính mong bệ hạ thứ tội.”
Tiểu cung nữ lúc này mới phản ứng kịp, cả người run rẩy.
Thiên tử lại tựa hồ cũng không để trong lòng: “Mọi người đều có nỗi nhớ quê nhà, các ngươi có tội gì đâu?”
Nói xong, hắn đã phân phó Tử Quyên: “Nếu đã là đồng hương của ngươi, vậy từ sau hãy để nàng ta đến hầu hạ ở Ngự Thư phòng?”
Tiểu cung nữ vô cùng choáng váng, vội vã tạ ân.
Khi ra khỏi Ngự Thư phòng, nàng ta nhìn thấy vẻ mặt nặng nề của Tử Quyên, lúc này mới cảm thấy có điều gì đó không đúng.
“Cô cô, dường như ngài không muốn để nô tỳ đến hầu hạ ở ngự tiền?”
Tử Quyên cố gắng nở một nụ cười: “Sao lại có thể như thế, chỉ là do ta lo lắng ngươi tay chân lóng ngóng, không cẩn thân chọc giận bệ hạ.”
“Nô tỳ lại cảm thấy bệ hạ đối xử với các cung nhân vô cùng khoan dung.”
Người người đều muốn hầu hạ bên cạnh thiên tử, tiểu cung nữ cũng không ngoại lệ, “Cô cô yên tâm, về sau nô tỳ nhất định sẽ cẩn thận.”
“Vậy là tốt rồi.”
Tử Quyên nhìn đôi mắt của nàng, trong lòng thầm than, nếu không có đôi mắt này, chỉ sợ nàng ta đã bị kéo đi chém đầu không biết bao nhiêu lần.
Năm Thịnh Bình thứ tư, thiên tử đã hai mươi tám tuổi, nhưng hậu cung vẫn trống không.
Quần thần lại thương thư, thúc giục thiên tử lựa chọn phi tử.
Thiên tử lại gác qua một bên.
Các lão thần ở Ngự Thư phòng vô cùng phẫn nộ: “Hậu cung không thể một ngày vô chủ, bệ hạ cưới thê tử là gia sự, cũng là quốc sự.”
Chu Dục lại lạnh nhạt nói: “Việc này về sau hãy bàn lại, các vị ái khanh, nếu không có việc gì khác thì hãy lui xuống đi.”
Sau khi các vị đại thần bị cấm vệ mời ra khỏi Ngự Thư phòng, tiểu cung nữ tiến vào dâng trà, chứng kiến thiên tử tựa trên ngự tọa, nhắm mắt trầm tư.
Nàng rón rén đến thay trà mới, lúc chuẩn bị lui xuống, Chu Dục đột nhiên mở miệng gọi nàng lại: “Tại sao đôi mắt của ngươi lại hồng như vậy?”
Tiểu cung nữ cả kinh, không ngờ thiên tử bận trăm công nghìn việc mà vẫn quan sát kỹ một tiểu cung nữ dâng trà bên người như vậy.
Nàng khẽ lau khóe mắt, rồi đáp lại: “Đêm qua nô tỳ lại mơ thấy phụ mẫu.”
Chu Dục mở mắt ra: “Ngươi nhớ đến phụ mẫu?”
Tiểu cung nữ gật đầu: “Phụ mẫu của nô tỳ đều đã qua đời, nên đôi khi buổi tối nằm mơ, nô tỳ đều hoảng hốt như cảm thấy hai người ở bên cạnh.”
Chu Dục ngưng mắt nhìn về phía đôi mắt của nàng: “Về sau đừng khóc nữa, trẫm không thích nhìn thấy ngươi khóc.”
Tâm của tiểu cung nữ đập thình thịch, nàng cúi đầu nói: “Nô tỳ tuân mệnh.”
Chu Dục phân phó xong, lại tiếp tục phê duyệt tấu chương.
Tiểu cung nữ phân phó xong, thấy sắc mặt mệt mỏi của thiên tử, không nhịn được hỏi: “Đêm qua bệ hạ không ngủ được sao?”
Tay của Chu Dục thoáng dừng lại, nhưng hắn không nói lời nào.
Tiểu cung nữ thấy hắn không trách cứ, nên càng to gan.
“Trong lòng bệ hạ cũng có người để nhớ đến sao?”
Rốt cuộc Chu Dục cũng buông tấu chương trong tay, quay đầu nhìn nàng.
Mãi cho đến khi thấy tiểu cung nữ run rẩy, không nhịn được quỳ xuống, lúc này mới lên tiếng nói: “Ngươi còn nhỏ, không hiểu được cái gì gọi là cầu mà không được.”
Tiểu cung nữ thở dài, bật thốt lên: “Bệ hạ cũng có người cầu mà không được sao?”
Chu Dục nhìn ánh mắt của nàng, tựa như muốn thông qua đôi mắt ấy nhìn thấy một người đang ở phương xa.
“Thiên tử cũng là người.”
Cũng sẽ cầu mà khong được.
Cũng có những đêm tối trằn trọc, tưởng niệm đến bình minh.
Khi đó tiểu cung nữ còn không hiểu thế nào là yêu hận, cùng nỗi đau đớn thấu tận xương khi cầu mà không được.
Năm Thịnh Bình thứ năm, lần đầu tiên thiên tử giá lâm đến chùa Đại Tướng Quốc, cùng chủ trì bàn luận về nhân quả kiếp sau. Sau khi hắn hồi cung, thay đổi thái độ một cách đột ngột, bắt đầu cho xây dựng rầm rộ chùa miếu.
Năm Thịnh Bình thứ sáu, thiên tử bắt đầu thường xuyên ngự giá thân chinh.
Từ khi bắt đầu, các đại thần đều kịch liệt phản đối.
“Thiên tử an khang là phúc của bá tánh, các vị hoàng đế đời trước, làm gì có ai không để ý đến tính mạng của bản thân?”
“Huống hồ bệ hạ còn chưa lưu lại con nối dõi, một phần vạn…” Các vị đại thần đều nhìn nhau thở dài.
Sau đó tin thắng trận liên tiếp được báo về, quân đội Đại Ngụy có thiên tử đích thân tham chiến, sĩ khí tăng vọt, bách chiến bách thắng, đánh đâu thắng đó.
Tiếng phản đối trên triều cũng càng lúc càng nhỏ, cho đến khi thay thế toàn bộ bằng những lời ca tụng.
“Bệ hạ xung phong đi đầu, mỗi trận chiến đều anh dũng lao ra trận mạc, thâm nhập trại địch, lấy một địch một trăm.”
“Đám xấu xa kia, mỗi lần nghe thấy bệ hạ đích thân ngự giá thân chinh, dều không khỏi ném giáp quy hàng.”
“Bệ hạ đích thân ngự giá thân chinh, quả thực là phúc của Đại Ngụy, phúc của bách tính.”
Nhưng cũng có người phát hiện có điểm không thích hợp.
“Bệ hạ dụng binh như thần, đây vốn là chuyện tốt, nhưng cách ứng chiến lại không giống như là muốn tiêu diệt quân địch, mà lại giống như muốn tìm… đường chết.”
“Quách công hãy ăn nói thận trọng, tại sao bệ hạ lại muốn đường chết chứ?”
“Có lẽ là do ta đã lo nghĩ quá nhiều. Sự thịnh thế của thiên hạ đều liên hệ chặt chẽ với bệ hạ, sao bệ hạ có thể không để ý đến an nguy của bản thân chứ.”
Trong phần lớn tiếng ca tụng và một phần nhỏ lo lắng, thiên tử rốt cuộc cũng khải hoàn quay về.
Năm Thịnh Bình thứ mười một, Đại Ngụy đã không còn phải tham chiến bất cứ trận chiến nào nữa.
Giang sơn ổn định, tứ hải thái bình.
Thiên tử mặc khôi giáp, bước lên tường thành, nhìn về phương xa.
“Ta đã trở thành một vị hoàng đế tốt, nàng vẫn không bằng lòng quay về gặp ta sao?”
Thiên tử khải hoàn trở về, quốc lực của Đại Ngụy cũng trở nên lớn mạnh chưa từng có, cũng không có bất cứ đất nước ngoại bang nào dám dòm ngó.
Hiện tại Đại Ngụy chỉ thiếu một người kế thừa đại thống.
Trên triều làn sóng yêu cầu mở lại tuyển tú ngày càng nghiêm trọng, nhưng thiên tử vẫn bác qua một bên.
Ở Ngự Thư phòng, bao nhiêu tấu chương được đưa vào, thì bấy nhiêu được lui về.
Mỗi vị đại thần bước vào Ngự Thư phòng, lúc đi ra đều ủ rũ lắc đầu.
Thậm chí có người còn hận không thể đập đầu vào cột, lấy cái chết để can gián.
Nhưng thiên tử ngồi sau ngự án vẫn không dao động.
Bây giờ hắn không chỉ là thiên tử của Đại Ngụy, mà còn là chiến thần trong lòng người dân Đại Ngụy.
Quyền uy của một bậc đế vương đã được thể hiện đến cực hạn ở trên người hắn.
Tiểu cung nữ hầu hạ ở Ngự Thư phòng ngày nào bây giờ cũng trưởng thành thành một cô nương yêu kiều trẻ tuổi. Khi nàng dâng trà cho Hoàng đế, trong mắt không che giấu được sự khuynh mộ.
Đêm nay thiên tử lại không muốn uống trà, mà chỉ cần rượu.
Càng uống thì trong lòng càng phiền muộn.
Tiểu cung nữ thấy thiên tử uống hết ly rượu này đến ly rượu khác, lại chứng kiến tấu chương được xếp thành từng chồng cao trên bàn, nhịn không được mở miệng khuyên nhủ: “Bệ hạ chẳng lẽ không muốn lập hậu sao?”
Tiểu cung nữ lớn thêm vài tuổi, sự can đảm cũng lớn theo.
Chu Dục ngẩng đầu, nhìn đôi mắt trong veo như làn nước kia, nhàn nhạt mở miệng: “Vì sao trẫm phải lập hậu?”
Tiểu cung nữ cúi đầu, lộ ra phần gáy trắng nõn nà, dịu dàng nói: “Chẳng qua là nô tỳ cảm thấy nếu hậu cung có Hoàng hậu, bệ hạ sẽ không cảm thấy cô đơn nữa.”
Chu Dục uống cạn ly rượu trong tay, chậm rãi lắc đầu: “Vị trí Hoàng hậu trong lòng trẫm, thời niên thiếu đã từng hứa cho một người.”
Một lời của thiên tử, tứ mã nan truy, một khi đã hứa hẹn, sẽ không thể đưa cho bất kỳ một ai nữa.
Tiểu cung nữ vô cùng kinh ngạc hỏi: “Vì sao bệ hạ không cưới người kia?”
Chu Dục lại nâng ly, uống cạn rồi nặng nề đặt ly xuống ngự án.
“Trẫm cũng muốn cưới nàng về.”
Không phải là không muốn, mà là không thể, cũng không dám.
Bình rượu đã trống rỗng, Chu Dục lắc lắc giọt rượu cuối cùng, rồi phân phó nói: “Ngươi đi lấy tiếp cho trẫm môt bầu rượu.”
Tiểu cung nữ bưng bầu rượu rỗng ra ngoài, khi xoay người đóng cửa, thấy thiên tử cô đơn ngồi một mình trên ngự tọa, chỉ cảm thấy ngự tọa như đang bùnh cháy một ngọn lửa lạnh lẽo như băng, từng chút một thiêu đốt người ngồi trên đấy thành tro tàn.
Nàng cảm thấy nỗi đau khổ lan tràn toàn thân, đau thấu tận xương.
Cho đến nay, nàng đã hiểu được cái gì gọi là cầu mà không được.
Không biết mỹ nhân nào lại đáng để bệ hạ tưởng niệm như vậy?
Đợi nàng ôm rượu về thì Ngự Thư phòng đã không còn một bóng người.
Tiểu cung nữ vội vàng chạy ra khỏi Càn Thanh cung, thì thấy thị vệ khiêng thiên tử về, hai chân mềm nhũn, bầu rượu trên tay rơi xuống đất, khiến rượu sái đầy đất.
Sau khi thiên tử uống say, không hiểu vì sao lại đến Trường Tín cung, không cẩn thận rơi xuống hồ sen.
Ngự y được truyền vào cung ngay trong đêm, vốn tưởng chỉ là phong hàn thông thường, không ngờ bệnh ập đến vừa nhanh vừa hung hiểm, đã không thể cứu chữa được nữa.
Chu Dục đôi khi mê man thần chí không rõ, thậm chí còn mê sảng.
Tích tụ nhiều năm trong tâm can, cuối cũng cùng dầu hết đèn tắt.
Trên giường bệnh, lúc thanh tỉnh Chu Dục đã cho gọi Triệu Đà đến phân phó: “Ngươi đi đưa Vệ Chiêu về, ta muốn gặp nàng lần cuối.”
“Bệ hạ đang chính trực tráng niên, ngài đừng nói mê sảng như vậy.”
Khi ra khỏi tẩm điện, Triệu Đà lau lên, một nam nhân to khỏe như vậy lại khóc nức nở như một tiểu tức phụ, “Bệ hạ đợi thần, thần nhất đinh sẽ không phụ sứ mệnh.”
Khi Triệu Đà chạy đến cửa cung, vừa mới phòng người lên ngựa, phía sau đã có tiểu hoàng môn vội vã đuổi theo.
“Triệu Thống lĩnh, Triệu Thống lĩnh xin hay dừng bước.”
Triệu Đà quay ngựa lại, gấp gáp nói: “Ta có trọng trách trong người, nếu không có chuyện gì quan trọng, đợi ta về rồi hãy nói.”
Dứt lời hắn quất roi định cưỡi ngựa rời đi.
Tiểu hoàng môn sợ đến tái mặt, thấy Triệu Đà muốn đi, vội vã cất cao giọng: “Bệ hạ có lênh, Triệu Thống lĩnh không cần đến Dương Châu nữa.”
Triệu Đà vội vã ghìm dây cương lại.
Con ngựa bị ăn đau, chân trước nhấc lên thật cao.
Triệu Đà tung người xuống ngựa, bước nhanh đến bên tiểu hoàng môn, nắm lấy vai hắn lớn tiếng hỏi: “Ngươi nói cái gì?”
Tiểu hoàng môn thở hổn hển, run rẩy nói: “Triệu, Triệu Thống lĩnh, sau khi ngài rời đi không lâu, bệ hạ đột nhiên gọi người tới bảo đi gọi ngài lại, nói là ngài không cần đi Dương Châu nữa, mà đổi hướng đến hoàng lăng đưa Đặng Trung tới.”
Không đi Dương Châu mà đi hoàng lăng.
Rốt cuộc bệ hạ có ý gì?
“Vậy ai đi Dương Châu?”
“Nô tài cũng không biết.”
“Ta phải đi gặp bệ hạ.” Hắn phải hỏi cho rõ ý của bệ hạ, hắn không tin bệ hạ thực sự không muốn gặp Vệ Chiêu.
Tiểu hoàng môn ngăn hắn, khuyên nhủ: “Sau khi bệ hạ uống thuốc đã nghỉ ngơi rồi, Triệu Thống lĩnh vẫn nên mau chóng lên đường.”
Triệu Đà nhìn thoáng qua hướng đến Càn Thanh cung, giậm chân một cái, quay đầu phóng ngựa như bay.
Bảy ngày sau, một đoàn người mệt mỏi vội vã đến thành Lạc Dương.
Đặng Trung đi theo Triệu Đà tiến cung. Rốt cuộc mười hai năm hắn mới gặp lại Chu Dục.
Trên giường bệnh, thiên tử đã không còn phong thái như trích tiên năm xưa nữa, mà chỉ còn là một người bệnh tật đợi chờ cái chết.
Nhưng hắn mới chỉ ngoài ba mươi.
“Bệ hạ…” Triệu Đà nhìn dáng vẻ này của Chu Dục, quỳ xuống đất, thắt lưng cũng cong xuống, khóc không thành tiếng.
Chu Dục vẫy tay để cho Triệu Đà lui xuống.
Cửa điện chậm rãi được đóng lại, hắn nhìn về phía Đặng Trung đang quỳ gối trước mắt.
“Khụ khụ, từ biệt nhiều năm, Đặng Trung ngươi cũng già rồi.”
Đặng Trung thản nhiên nói: “Ấy vậy mà phong thái của bệ hạ vẫn như trước.”
Chu Dục cười nói: “Ngươi không cần châm chọc trẫm, trẫm gọi ngươi qua đây, là đã có ý định không để Vệ Chiêu nhìn thấy diện mạo sắp chết của trẫm.”
Đặng Trung rũ mắt nói: “Bệ hạ hồng phúc tề thiên, nhất định sẽ sống lâu trăm tuổi.”
Lời này thốt ra lại có mấy phần thật lòng.
Thiên tử trên giường bệnh đã như nến tàn trước gió, lung lay sắp tắt.
Chu Dục nói thẳng vào vấn đề chính: “Đặng Trung, trẫm chỉ tin tưởng ngươi, khụ khụ, sau khi trẫm qua đời, người thay trẫm đi Dương Châu, bảo vệ Vệ Chiêu… đợi đến khi nàng qua đời, bí mật táng nhập hoàng lăng.”
Đặng Trung khiếp sợ nhưng lại không hiện lên trên mặt.
Chu Dục thở hổn hển, nắm chặt chăn, trong mắt ngập tràn sự điên cuồng.
“Khụ khụ… trẫm và Vệ Chiêu, sống không thể cùng khâm, vậy chết cũng phải táng chung huyệt.”
Đặng Trung khổ sở nhìn người nam nhân đứng đầu thiên hạ này, cúi đầu, quỳ rạp xuống đất: “Thần tuân chỉ.”
Chu Dục nhận được câu trả lời hài lòng, dùng hết khí lực cuối cùng phân phó: “Đặng Trung, trẫm muốn ngươi thề với trời, quãng đời còn lại chỉ được bí mật bảo vệ Vệ Chiêu, không được xuất hiện trước mặt nàng, bằng không đời đời kiếp kiếp thân thể đều có tàn khuyết, đau nỗi đau mất đi người mình yêu.”
Đặng Trung đột nhiên ngẩn đầu nhìn Chu Dục.
Dù đang mang bệnh trong người thì thiên tử vẫn là thiên tử, dù chết cũng sẽ không cho phép bất cứ kẻ nào mơ ước đến người hắn yêu.
Đặng Trung chua xót mở miệng: “Từ trước đến nay bệ hạ đều không tin Phật, thần thề hay không cũng có ý nghĩa gì đâu?”
Chu Dục nhìn chằm chằm hắn, hòng tìm ra bất cứ dị tâm nào của hắn đối với Vệ Chiêu.”
“Mặc dù trẫm không tin Phật, nhưng lại nguyện tin vào kiếp sau.”
“Khụ khụ… như thế nào? Đặng Đốc công nói về kiếp sau với trẫm, chẳng lẽ ngay cả bản thân cũng không tin sao?”
Đặng Trung nhìn chăm chú Chu Dục một hồi, rốt cuộc thề: “Thần phát thệ, quãng đời còn lại sẽ không bao giờ xuất hiện trước mặt Vệ Chiêu, nếu vi phạm lời thề, đời đời kiếp kiếp thân thể đều có tàn khuyết, đau nỗi đau mất đi người mình yêu.”
Rốt cuộc Chu Dục cũng an tâm để hắn rời đi.
Đặng Trung đứng dậy, trước khi đi còn hỏi Chu Dục: “Bệ hạ thật sự tin tưởng là có kiếp sau sao?”
Người trên giường đã nhắm mặt, tựa hồ ngủ say.
Đặng Trung yên lặng hành lễ với người nằm trên giường, rồi cũng yên lặng lui ra khỏi điện.
Khi hắn đi rồi, Chu Dục mới mở mắt ra. Ánh mắt xuyên qua cửa sổ khẽ hé mở, nhìn về phía phương xa.
Ở cùng dưới một khoảng trời, là nơi sinh sống của hàng vạn bách tính Đại Ngụy, cũng là nơi sinh sống của người trong lòng của thiên tử Đại Ngụy.
Ngay từ nhỏ Chu Dục đã được dạy dỗ làm một bậc đế vương, nên tâm của hắn luôn vững như bàn thạch, sẽ không bao giờ dao động vì quỷ thần.
Sở dĩ hắn nguyện ý tin tưởng vào ước hẹn kiếp sau, bất quá chỉ bởi vì vương vị quá mức lạnh lẽo, nếu như trong lòng không có một chút tưởng niệm, ngồi ở trên cao, sẽ chỉ dần dần biến thành một đống tro tàn.
Bây giờ hắn đã thực hiện được theo những điều Vệ Chiêu từng nói, trở thành một vị Hoàng đế tốt. Cuối cùng hắn cũng có thể buông bỏ trách nhiệm của một vị đế vương.
Ở đoạn đường cuối cùng của sinh mệnh, ánh mắt của Chu Dục mơ hồ, hắn vươn tay về phía cửa sổ, tựa như muốn bắt lấy một thứ gì đó, nhưng rốt cuộc lại chẳng thể bắt được thứ gì.
Vệ Chiêu, ta tới tìm nàng đây.”
“Đông.” Tiếng chuông vang lên, cả nước mặc đồ tang.
Năm Thịnh Bình thứ mười một, Ngụy Văn đế Chu Dục băng hà trong cung vì bệnh nặng, hưởng dương ba mươi lăm tuổi.
(Hoàn.)

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.