Chuyện Tình Vịnh Cedar 2: Ngày Mai Không Hẹn Trước

Chương 14:




V ào hai ngày cuối tuần, Grace đặt phòng trong một khách sạn sang trọng tại Seattle. Thông thường thì dù có thẻ giảm giá chị cũng chẳng bao giờ làm thế vì túi tiền không cho phép, song thái độ lẩn tránh của Maryellen suốt từ hôm Giáng sinh khiến chị bồn chồn, và không thể ngơi yên mặc tình trạng đó tiếp diễn.
"Chào con yêu'', chị nói và thấy mừng vì Maryellen đang ở phòng tranh một mình.
Maryellen tỏ ra ngại ngần. Grace biết rằng cô đang tìm lý do để rút ngắn cuộc gặp gỡ này. ''Con chào mẹ''. Maryellen nói. “Con không biết phải nói thế nào vì bất ngờ thú vị này”.
"Mẹ đến với một nhành ô liu đây''.
Con gái chị nhìn mẹ thận trọng."Sao lại thế ạ? Chúng ta có tranh cãi gì đâu?".
“Không hẳn là vậy. Nhưng lâu rồi mẹ con mình không ở bên nhau. Mẹ đã cố gắng tìm hiểu thông tin về cha của đứa trẻ và những kế hoạch của con. Nhưng mẹ đã nhầm”. Maryellen đã từ chối trả lời bất cứ câu hỏi nào và Grace tin rằng người đàn ông là cha đứa trẻ chắc chắn chưa biết chuyện này. Chị sợ nhất là người đó đã có gia đình. Phản ứng của Maryellen trước những thăm dò của chị đã khẳng định chắc chắn thêm điều đó.
Maryellen mỉm cười. Bây giờ da cô không còn tái như một tháng trước nữa. Nhìn kỹ cũng khó mà phát hiện được cô đang mang thai. Nhưng Grace có thể nhìn thấy điều đó bằng kinh nghiệm của mình và lấy làm ngạc nhiên tại sao chị lại không nhận ra lần mang thai đầu tiên của con gái. Hôm đó là lần duy nhất Maryellen thổ lộ, và cô không hề đề cập thêm một lần nào. Nhiều lúc Grace băn khoăn hay là con gái chị tưởng tượng ra chuyện ấy.
“Mẹ đã đặt chỗ khách sạn cho mẹ con mình ở Seattle rồi”. Grace nói và giải thích lý do chuyến đi.
“Một phòng khách sạn ạ? Để làm gì hả mẹ?”.
"Để mẹ con ta được nghỉ cuối tuần ở một nơi xa - đây là lần đầu tiên và mẹ hy vọng là năm nào chúng ta cũng thực hiện được điều đó''.
Maryellen nhướng mày. ''Kelly có đến không ạ?''.
“Mẹ hy vọng là có”. Grace biết các con chị không được hòa thuận với nhau cho lắm. Kelly tự ái và giận dỗi vì Maryellen đã không nói cho nó biết về việc mang thai. Grace thực sự phải cố gắng rất nhiều để không bị mắc vào sự bất hòa giữa hai đứa con. Nhưng bây giờ thì thật khó khăn vì Kelly cũng đang rất giận chị.
Kelly lúc nào cũng coi Dan như một thần tượng. Cái gì bố cũng là nhất. Cô cảm thấy bố đã phụ lòng mình - bây giờ mẹ lại còn hẹn hò yêu đương với Cliff Harding. Tất cả khiến Kelly càng có cảm giác bị phản bội. Việc Maryellen giữ bí mật về cái thai đúng là đòn tấn công cuối cùng đối với cô.
“Nếu Kelly đồng ý thì con cũng sẽ đi”. Maryellen nói với mẹ. “Mẹ rất mừng vì con nói thế”.
Tối đó Grace gọi cho con gái út. Thật không dễ dàng chút nào để thuyết phục Kelly đi nghỉ cuối tuần ở tận Seattle. Nhưng thật may mắn con rể Paul của chị đã động viên vợ đi cùng mẹ. Paul biết Kelly đang đau khổ nên đã năn nỉ và thuyết phục vợ rằng đây sẽ là cơ hội để anh và con trai anh gắn bó với nhau hơn.
Grace vui mừng khôn xiết khi thấy Kelly đồng ý.
Tối thứ sáu ấy, ba mẹ con đi phà đến Seattle và bắt tắc-xi đến khu cảng. Người lái xe tắc-xi trẻ tuổi rõ ràng là dân mới nhập cư, anh ta đã nhảy ra khỏi xe để mở cửa cho họ và vội vàng quay trở lại ghế lái.
Đây quả là một chuyến phiêu lưu của Grace. Chị quyết tâm tạo ra một kỳ nghỉ cuối tuần đáng nhớ với hai cô con gái xinh đẹp của mình. ''Thật vui khi gặp một người lái xe lịch lãm như cậu. Cậu rất biết cách chiều khách đấy''. Grace khen cậu ta và thấy tinh thần phấn chấn hơn.
“Xin cảm ơn bà”, người tài xế quay lại và lái xe vào bến tàu. Cậu ta nói tiếng Anh khá tồi nhưng cũng đủ để diễn tả cho người đối thoại hiểu những bình luận của mình về thành phố. Cậu lái đến khách sạn Đại lộ 4 và đỗ vào lề đường. Một người bảo vệ bước ra mở cửa xe cho họ.
Grace trả tiền cho cậu tài xế và thêm vào đó một ít tiền boa. “Chào mừng cậu đến nước Mỹ”, chị nói.
“Cảm ơn bà”, cậu đáp lại và cúi đầu. ''Chúa phù hộ cho nước Mỹ''.
“Đúng, Chúa phù hộ nước Mỹ”.
Phòng chờ khách sạn khá sang trọng và rộng rãi thoáng đãng với một bệ đá cẩm thạch rất lớn nằm chính giữa sảnh, trên có một lẵng hoa thật to mà Grace chưa trông thấy ở đâu bao giờ. Họ thong thả bước về quầy đăng ký lễ tân và làm thủ tục nhận phòng; Grace chìa tấm thẻ tín dụng ra, và cố không nhăn mặt. Vài phút sau họ được một nhân viên đưa lên phòng nghỉ.
Sau khi gọi điện về nhà hỏi xem tình hình bé Tyler thế nào, Kelly thấy yên tâm và bắt đầu thư giãn. Đây là lần đầu tiên Kelly xa con nhiều tiếng đồng hồ như vậy nên cô rất nhớ nó.
Kelly ngồi trên chiếc giường đôi rộng rãi và vòng tay qua đầu gối. Cô hỏi chị gái. ''Chị đã nghĩ là sẽ đặt tên gì cho con chưa?''.
Một giây căng thẳng Maryellen trả lời. ''Thật ra thì chưa... Chị hy vọng nó là con gái, và nếu được thế chị sẽ gọi nó là Catherine Grace''.
“Tên đẹp đấy”.
Grace rưng rưng lệ khi thấy con gái muốn lấy tên mình đặt cho con nó. Nhưng chị nhanh chóng lau nước mắt vì không muốn làm hỏng buổi tối vui vẻ của ba mẹ con bằng những cảm xúc ủy mị. Chị đã gửi gắm nhiều hy vọng vào chuyến đi nghỉ này. Chỉ muốn được cười, được trò chuyện vui vẻ với các con để gợi lại cho chúng những ngày xưa đầm ấm khi cả nhà sum vầy bên nhau.
Dan biến mất khiến ba người phụ nữ mất mát: người mất chồng, kẻ mất cha, tổ ấm gia đình tan vỡ cả Grace luôn muốn có một lời giải đáp thỏa đáng, nhưng lúc này đây, những thứ đó chẳng có ý nghĩa gì với chị nữa.
Ba mẹ con bỗng cùng im lặng. Họ băn khoăn về những việc đã làm và cả những việc không làm. Chẳng ai tìm ra lý do hay câu trả lời nào cho sự bỏ đi của Dan - chỉ còn lại những nghi ngờ thắc mắc. Cũng chính vì điều này mà vết rạn tình cảm giữa ba mẹ con cứ dần dần lớn lên. Grace muốn hàn gắn vết rạn đó.
Sáng hôm sau họ dậy sớm và hào hứng muốn khám phá nơi đây bằng một tua du lịch. Điểm xuất phát đầu tiên là chợ Pike Place. Họ ăn nem nóng và uống cà-phê pha với nhiều hương liệu khác nhau trên đường phố. Họ dạo bước giữa những quầy hàng dài bày bán đủ các loại hoa quả và rau. Grace thích nhất quầy hải sản. Cá, cua, tôm, trai, sò biển và điệp được bày bán la liệt trên lớp đá vụn ướp lạnh. Họ gia nhập vào đám đông ngư dân đang tung cho nhau một con cá hồi rất lớn.
Ba mẹ con ăn trưa trên khu cảng biển, dưới bầu trời u ám mây che. Rồi họ lại du ngoạn ở công viên sinh vật biển Seattle và xem một bộ phim Imax nói về núi lửa Saint Helens phun trào, một địa danh du lịch được nhiều người ưa thích. Cuối ngày, cả ba đều mệt lử. Chẳng ai muốn đi chơi nữa nên gọi pizza vào khách sạn. Ba mẹ con ngồi trên giường, bốc bánh và cười nói vui vẻ về việc phải trả những ba đô la để mua một lon sô-đa ở quay bar mini trong phòng nghỉ. Mặc dù rất mệt nhưng chẳng ai muốn đi ngủ sớm. Họ cởi bỏ bộ đồ đang mặc và thay bằng áo pijama và váy ngủ. Rồi họ nói chuyện suốt đêm. Ai cũng tránh nhắc đến Dan và những phỏng đoán xung quanh vụ mất tích ấy. Họ cũng không bàn luận gì về cái thai của Maryellen mà chỉ đưa ra vài cái tên để đặt cho đứa bé nếu nó là con trai. Nhưng cả hai chủ đề bị tránh né vẫn luôn hiện hữu trong suy nghĩ của mọi người. Giống như Grace, hai chị em đều không muốn phá vỡ không khí êm đềm tuyệt diệu mà cả ba đang chung hưởng.
Ngày chủ nhật họ làm thủ tục rời khách sạn. Grace rất vui và hối tiếc vì thời gian họ dành cho nhau đã đến lúc kết thúc. Nhưng chị thật sự phấn khởi vì đã có ngày cuối tuần vui vẻ với hai cô con gái đáng yêu. Đó là tất cả những gì chị mong muốn.
“Lần sau chúng ta sẽ lại đi thế này các con nhé”, chị nói lúc ba mẹ con ngồi đợi phà và đi xuống thuyền.
“Năm sau thì hơi khó mẹ ạ”, Maryellen nói, “không phải là con không muốn, mà vì nguyên nhân khác. Con sẽ sinh cháu”.
“Thì đưa con bé đi cùng chứ sao”. Kelly khăng khăng.
“Con bé á?”. Maryellen đùa, ''em cứ làm như là chắc chắn chị sẽ có con gái ấy''.
“Nó sẽ là một đứa con gái”. Kelly nói với vẻ tự tin.
“Làm sao em biết được?”.
“Em đoán vậy”. Kelly đan tay vào nhau và vòng quanh chân, dựa lưng vào chiếc ghế băng gỗ cứng. “Rất lâu trước khi sinh Tyler, em đã linh cảm rằng bé là con trai. Và em chắc chắn rằng chị sẽ cho ra đời một bé gái mang tên Catherine Grace”.
Grace không hiểu điều Kelly nói liệu có trở thành sự thật không, nhưng chính chị cũng có linh cảm đó. "Thì các con cứ tin là bé gái đi''. Dù sao dự đoán của Kelly cũng có tới năm mươi phần trăm chính xác, và quan trọng hơn cả là chị đã được ngắm các con cười đùa với nhau, điều mà chỉ mấy ngày trước chị không ngờ tới được.
Lúc đặt phòng khách sạn, Grace chỉ sợ không khéo chị chẳng kham nổi những chuyện sẽ xảy ra; nhưng bây giờ chị mới thấy rằng chuyến đi này thật xứng đáng với sự đầu tư của mình.
Roy McAfee rời mắt khỏi màn hình máy tính và nhìn xuống hồ sơ của Sherman đang để trên bàn. Bộ hồ sơ mỗi tuần một dày thêm. Mấy tháng trước, Grace Sherman đã thuê anh tìm kiếm thông tin về người chồng mất tích của chị. Cho đến nay anh đã phải bác bỏ hầu hết mọi nghi ngờ rủa mình. Anh đã nghĩ đến nhiều khả năng khác nhau, nhưng cũng chẳng đi đến đâu cả. Roy đích thân đảm nhiệm vụ này và thấy bản thân bất lực vì vẫn chưa tìm ra bất cứ một manh mối nào.
Sau hai mươi năm phục vụ trong lực lượng cảnh sát ở Seattle, Roy đã leo lên đến chức điều tra viên. Nhưng vết thương trên lưng trong một lần phá án đã khiến anh phải chấp nhận về hưu non. Điều đó cũng tốt thôi; cả hai thằng con trai anh đều đã tốt nghiệp đại học và có thể tự lo cho bản thân mình được rồi.
Anh và Corrie chuyển nhà đến vịnh Cedar. Ở đây chi phí sinh hoạt cũng phải chăng, mà giá nhà đất lại rất hợp lý. Roy mong rằng mình có thể ổn định và sống thoải mái kể cả khi về hưu sớm như vậy.
Nhưng Roy mau chóng nhận ra nếp sống quanh quẩn ở nhà trong bốn bức tường sẽ làm thui chột mọi hứng thú của cuộc đời mới. Vì vậy, mười tám tháng sau khi chuyển đến vịnh Cedar, anh bắt đầu khởi nghiệp làm thám tử tư. Corrie cũng đã từng công tác trong môi trường cảnh sát một thời gian dài nên chị cũng vui vẻ làm trợ lý và thư ký giúp chồng.
Khi mở văn phòng điều tra, Roy xác định rằng phạm vi chủ yếu của mình là theo dõi các vụ mất tích và các vụ việc có liên quan đến bảo hiểm. Nhưng do đặc thù nghiệp vụ, anh phải thực hiện rất nhiều công việc khác nhau. Điều đó khiến anh nhận ra rằng cuộc sống này có vô vàn chuyện khó giải quyết. Vụ khó nhất và đánh đố nhất đối với Roy chính là sự mất tích của Dan Sherman. Người đàn ông này đã hoàn toàn bốc hơi. Roy không thể tìm ra được tung tích hay manh mối nào. Thậm chí anh còn nghĩ có lẽ Dan đã tham gia vào chương trình bảo vệ nhân chứng rồi cũng nên.
Corrie bước vào văn phòng và mang theo một tách cà-phê thật đặc. Chị trỏ màn hình máy tính. “Vụ Dan Sherman phải không anh?”.
Roy nhún vai. Corrie chẳng nói gì thêm nữa, nhưng cả hai đều hiểu họ không thể bỏ cuộc được. Mấy hôm nay Roy phải tiến hành công việc bằng chi phí tự bỏ ra. Grace đã trả cho anh một khoản, số tiền đã hết mà anh vẫn chưa tìm được câu trả lời cho chị ta.
“Troy Davis vừa gọi đấy anh ạ”, Corrie báo với chồng, ''anh ta hẹn gặp anh chiều nay''.
Thú vị đây Roy quen viên cảnh sát trưởng của thị trấn chưa được bao lâu. Anh mới nói chuyện với ông ta vài lần nhưng xem chừng họ khá hợp chuyện nhau. Roy thấy mến Davis, nhưng viên Cảnh sát trưởng thì hình như không tin tưởng anh lắm. Roy vẫn bảo lưu ý kiến của mình, cho rằng cần thêm bằng chứng nữa mới có thế kết luận.
“Anh ta có nói cụ thể là về việc gì không?”, anh hỏi vợ. Corrie lắc đầu. ''Không, anh ta chỉ nói muốn trao đổi với anh đôi chút''. Đúng 3 giờ, Troy tới văn phòng. Corrie dẫn anh ta vào phòng Roy. Roy đứng lên chào viên Cảnh sát trưởng. Roy đã cao đến 1.82m mà Troy còn cao hơn Roy khoảng bốn, năm xen-ti-mét gì đó. Lại thêm cái bụng khá to, chắc là do ngồi bàn giấy quá nhiều nên mới như thế. Họ bắt tay nhau và ngồi xuống.
Troy bắt tréo chân lên gối, rút cây tăm ra khỏi túi áo sơ mi và cắm vào mép. Một lát sau ông ta hỏi. “Anh có nhớ cách đây không lâu có vụ chết người ở nhà nghỉ Thyme và Tide không? Cái nhà trọ chỉ phục vụ phòng ngủ và bữa sáng của gia đình Beldon ấy”.
Roy vẫn nhớ vụ đó. Tất cả những bài báo có đăng về việc này hầu như chẳng có gì mới cả. Một người lạ mặt xuất hiện vào một đêm giông bão và đặt phòng, sáng hôm sau thì bị phát hiện là đã chết. Không có nguyên nhân rõ ràng. Sau khi đọc bài đó ở trang nhất tờ Bản tin vùng vịnh Cedar, Roy chẳng còn nghe nói gì đến kẻ lạ mặt bí ẩn đó nữa, mặc dù anh cũng có nhớ lại thêm một chi tiết. Bài báo đó đã kể rằng người đàn ông đó mang căn cước giả - bằng lái xe cho biết anh ta là James Whitcomb đến từ một vùng nào đó của bang Florida.
“Chúng tôi vẫn không tìm ra được tên cho anh chàng John Doe đó”. Troy cau mày. “Đôi lúc Joe Mitchell nghĩ rằng chuyện này có gì đó liên quan đến Dan Sherman”.
“Dan ư? Hẳn phải có người nào đến nhận diện anh ta rối chứ”.
“John Doe đã phẫu thuật thẩm mỹ khá nhiều. Anh ta có vóc người và nước da giống Dan. Thế nên chúng tôi mới gọi Grace đến để nhận diện. Thật tồi tệ Grace bị chấn động kinh khủng. Nhưng cô ấy đúng là một phụ nữ cứng rắn và nghị lực. Tôi thật sự khâm phục”.
“Vậy đó không phải là Dan rồi”. Roy nghĩ cũng có thể Troy đang khẳng định.
“Chắc chắn là không”, Troy gằn giọng. Ông ta chuyển chiếc tăm xỉa răng sang mép bên kia. ''Lẽ ra mọi chuyện phải dễ dàng hơn mới đúng''.
“Thế dấu vân tay của John Doe có nói lên điều gì không?”.
Troy thả chân xuống và ngồi thẳng dậy. ''Đáng tiếc là chẳng nói được khỉ gì. Anh ta không có vân tay nữa kia, chắc là đã phẫu thuật xóa vân tay".
"Thật thế sao? Anh cho rằng anh ta đã cố tình loại bỏ vân tay của mình?''. Có khả năng đó lắm, nếu thế thì còn cách khác là dùng ADN. Nhưng khi đó, công nghệ ADN vẫn tương đối mới mẻ.
Troy nhún vai bất lực. "Anh đoán y như tôi vậy. Tôi chỉ biết là thẻ căn cước của John Doe là giả mạo. Anh ta vào thị trấn, trú chân tại nhà nghỉ chỉ phục vụ phòng-ngủ-và-bữa-sáng ấy, rồi chết. Điều tra không đem lại kết luận gì. Sự việc khá bất bình thường, không như vụ đăng nhan nhản trên các báo lá cải đâu''. Roy nhăn mặt. “Liệu có phải anh ta nằm trong chương trình bảo vệ nhân chứng không nhỉ?”. Thật buồn cười là vài tiếng trước Roy lại có giả thiết đó về Dan Sherman.
“Tôi có nghĩ như vậy. Và tôi đã lập tức liên hệ với lực lượng FBI địa phương''.
“Họ sẵn sàng giúp đỡ anh chứ?”.
Troy gật đầu. ''Tôi cung cấp cho họ tất cả những thông tin tôi có. Một tuần trước đây họ liên lạc lại với tôi nhưng cũng chẳng sáng tỏ được gì nhiều''.
“Chiếc xe thì sao?”
“Đó là xe đi thuê”.
“Ít nhất Mitchell cũng phải tìm ra nguyên nhân cái chết chứ?”
Troy cắn gập chiếc tăm. ''Như tôi đã nói, mọi chi tiết trong vụ này đều rất khó lý giải. Nói thẳng ra là chúng ta không thế hiểu được. Bob và Peggy kể lại là trước lúc đi ngủ, trông anh ta hoàn toàn còn khỏe mạnh. Bob nhận xét nom anh ta có vẻ bồn chồn khi đi về phòng, nhưng peggy cho rằng đó là vì anh ta mệt. Lúc ấy cũng muộn rồi''.
“Mitchell nghĩ thế nào?”
''Vì không tìm thấy dấu vết gì bất thường, nên Mitchell bác bỏ hết mọi khả năng gây ra cái chết. Đó không phải là một kết luận cảm tính đâu. Mặc dù chưa có lấy được các kết quả xét nghiệm nhưng không có gì chứng tỏ rằng hắn bị ngộ độc. Chịu không hiểu nổi nguyên nhân cái chết của hắn. Có khi đang khỏe mạnh bình thường, một phút sau hắn bỗng lăn ra chết cũng nên”.
“Hắn tắt thở vào lúc nào?”.
“Joe nhận định có thể hắn ta chết trong khi ngủ, gần như ngay sau khi tới nhà trọ của gia đình Beldon”.
Roy phải thú nhận càng lúc anh càng tò mò hơn; vụ việc ngày một cuốn hút. ''Anh hẹn gặp tôi chắc không chỉ để bàn luận mấy vấn đế đó, đúng không? Tôi giúp được gì cho anh nào?''.
Troy Davis nhả cái tăm và thả vào sọt rác cạnh bàn của Roy. “Tôi không cho rằng đây là một vụ giết người. Nhưng cũng chưa thế kết luận chắc chắn được. Anh ta mang thẻ căn cước giả, nhưng có rất nhiều người cũng mang thẻ căn cước giả đấy thôi”. Ông ta thở dài đánh sượt ''Tôi không đủ nhân lực để làm vụ này. Tôi muốn thuê anh làm hợp đồng độc lập để giúp chúng tôi nhận diện John Doe. Nếu như anh thu lượm được thông tin thì tốt quá. Chúng tôi sẽ rất biết ơn nếu có thể tìm ra được cái gì đó''.
Roy quyết định nhận lời ngay. Vụ việc khiến anh thấy hứng thú, nhưng anh nghĩ mình nên tìm hiểu xem sẽ phải đương đầu với những gì trước khi nhận lời, vì vậy anh hỏi. “Anh còn manh mối nào có thể cung cấp cho tôi không?”.
“John Doe đã tỉ mỉ làm mọi thứ. Tất cả đồ dùng đều được gói ghém cẩn thận và gọn gàng trong túi xách. Trông như là chuẩn bị ra trận vậy. Quần áo của hắn thuộc loại chất lượng cao nhất, thượng hảo hạng cơ đấy. Rất đắt tiền. Chiếc áo mưa của hắn cũng hiệu của Ý hẳn hoi, nhưng tôi cũng không rõ của hãng nào. Chắc phải mua bằng một khoản tiền cao hơn cả lương tháng của tôi ấy chứ”.
“Anh ta thuê xe loại gì?”.
“Thật buồn cười, chắc hẳn anh sẽ nghĩ đó là một chiếc Lexus hay đại loại thế, nếu như căn cứ vào cái chỗ quần áo đắt tiền ấy. Nhưng đó lại là một chiếc Ford Taurus. Thú vị không? Anh sẽ nghĩ là hắn ta có thể đủ tiền để thuê bất cứ chiếc xe nào mà hắn muốn đúng không, nhưng hắn đã chọn ngay một chiếc xe kín đáo ít ai ngờ tới nhất”.
Điều này lại đặt ra cho Roy một câu hỏi. “Thế anh ta mang trong người bao nhiêu tiền”. Roy hỏi.
“Chỉ khoảng hai trăm đô la. Không có gì bất thường cả”.
“Thôi được”. Roy nói chắc chắn. ''Cứ để tôi nhảy vào vụ này xem sao''.
“Tuyệt vời”. Troy đứng lên và bắt tay Roy. “Khi nào anh ghé qua văn phòng, tôi sẽ giao cho anh bản sao bộ hồ sơ của chúng tôi. Và anh sẽ bắt đầu từ đó nhé”.
Roy hết sức nôn nóng. Khi Troy về, Corrie chạy vào phòng, đôi mắt cô đầy thắc mắc. ''Anh ta có vụ gì cho anh à?''.
“Làm gì có”. Roy nói. Anh đứng bên cửa sổ, nhìn theo viên Cảnh sát trưởng. Rời khỏi cửa nhà anh, ông ta quay về chiếc xe tuần tra. Gã John Doe này kích thích trí tò mò của Roy hơn bất cứ vụ nào mà anh đã giải quyết.
Olivia đang làm món bánh nướng xốp trong lò theo công thức của mẹ. Chị vừa rửa bát đĩa vừa ngân nga bài Đức vua và tôi theo băng cát-sét. Chuông cửa reo vang, chị gạt bọt xà phòng đang dính đầy tay và đi ra, không buốn vặn nhỏ nút âm thanh xuông.
Miệng vẫn lẩm nhẩm hát theo băng, Olivia mở cửa và thấy Jack Griffin đang đứng chờ. Anh đến sớm hơn giờ hẹn tới mấy tiếng đồng hồ.
“Xin chào, hỡi những người đang yêu trẻ tuổi dù ở bất cứ nơi nào”, chị hát và kéo cửa rộng hơn để nồng nhiệt chào đón anh vào nhà.
"Những người đang yêu à? Tôi nghe thấy ai nói những người đang yêu ấy nhỉ?''. Jack nhướng đôi lông mày một cách khôi hài và bước vào nhà. m nhạc tràn đầy không gian quanh hai người. Jack ôm eo Olivia và ngả chị ra một cách đột ngột trong tay anh rồi lại dựng chị lên.
“Ôi anh yêu của em”, Olivia thốt lên. "Anh làm cho tim em đập rộn lên đây này''.
Jack nắm lấy đôi vai chị, anh quay mặt chị về mình và nụ cười dần dần mờ đi. “Anh muốn em hát lại cụm từ những người yêu nhau”.
“Những người yêu nhau trẻ tuổi đấy chứ”.
“Không”. Anh nói, vòng tay ôm gọn lấy chị, "quên cái từ trẻ tuổi ấy đi. Đơn giản là cụm từ những người yêu nhau '' như em và anh lúc này thôi''. Đôi mắt anh dường như đen và sâu hơn. Olivia nhận ra không phải anh đang đùa nữa. Đó là một câu hỏi mà Jack - một người hài hước và là người bạn đồng hành cái-gì-cũng-cười của chị đang muốn chị trả lời.
"Em...". Sự việc xảy bất ngờ khiến Olivia đâm ra bối rối. Hôm đó Jack đã gọi điện sớm và đề nghị hai người gặp nhau; anh muốn nói chuyện. Mấy tháng rồi chị mới được nghe giọng anh vui vẻ như vậy. Olivia đoán là đã có tin gì đó của Eric. Cách đây vài tuần,
Jack đã nói chuyện là con trai anh có lẽ sẽ chuyển việc và sẽ đi khỏi nhà anh trong nay mai. Anh nói anh nhớ con, nhưng giọng anh lại rất vui khi anh kể về quyết định chuyển chỗ làm của Eric - và càng vui hơn khi anh chuẩn bị được ở lại một mình trong căn nhà như xưa.
Trước khi kịp trả lời, chuông hẹn giờ của chiếc lò nướng bánh vang lên. Olivia thấy nhẹ người vì có cơ hội trốn thoát khỏi Jack và câu hỏi của anh. “Bánh nướng xốp đấy”, chị nói và chạy nhanh ra bếp. Chị với lấy hai cái lót nồi và lôi chiếc khay thiếc ra. Chị bày những chiếc bánh trên quầy cho nguội.
Khi chị quay lại, Jack đã đứng ở lối vào. Ánh mắt họ gặp nhau. ''Cuối tuần này Eric sẽ chuyển đi em ạ''.
“Em cũng đoán thế”.
“Anh không muốn bắt đầu vấn đề của chúng mình bằng câu hỏi vừa rồi. Nhưng em đã cho anh một màn dạo đầu tuyệt hảo lúc em ra mở cửa và hát về những người đang yêu”.
Chị đã bị cắt ngang lúc đang hát đấy chứ, và chị không có ý gợi ra một cuộc làm tình nào cả.
“Nghe này Olivia”. Jack nói, anh chậm rãi bước về phía chị. “Anh yêu em đến phát cuồng mất”.
Olivia cũng run rẩy vì khao khát, nhưng chị thấy sợ. Đã mười sáu năm kể từ khi ly dị, chị chưa gần gũi người đàn ông nào cả. Thậm chí chị còn ngần ngại khi nghĩ đến những động chạm vuốt ve của phái mạnh. Sự do dự làm chị lo sợ; nếu như sau ngần ấy năm mà chị vẫn chưa sẵn sàng thì có lẽ chẳng bao giờ còn sẵn sàng được nữa. Cuối cùng, đầu hàng đam mê và ham muốn nhiệt cuồng, chị mở rộng vòng tay.
Giọng chị lạc hẳn, và con tim hòa nhịp với bản nhạc trữ tình Con đường lớn - bản nhạc yêu thích của chị.
Jack bước lại gần Olivia. Đôi môi họ gặp nhau trong một nụ hôn hoang dại và đắm say. Đôi chân chị run rẩy, đầu chị như muốn buông xuôi. Đã lâu lắm rồi họ mới được tự do hôn nhau đến mức không thể kìm được ham muốn ái ân thực sự. Chuyện ân ái sẽ giúp họ thay đổi được tất cả mọi thứ...
Jack ôm trọn chị trong vòng tay, từng thớ thịt rung động vì nôn nóng. Bản nhạc đã hết, chợt điện thoại di động của anh reo vang làm cả hai giật mình. Jack không thèm đếm xỉa, cứ tiếp tục ngấu nghiến Olivia bằng đôi môi nóng bỏng. “Đến nhà anh đi”, anh thì thầm, giọng khản đặc. ''Sáng nay anh thay ga trải giường rồi".
“Jack”. Liệu đây có phải một sự cám dỗ?
“Anh đã mơ thấy em, mơ chúng mình cùng nhau ngắm vịnh và yêu nhau”.
Chuông điện thoại reo năm hồi nữa rối tắt ngấm.
Sự im lặng hình như lớn hơn cả tiếng chuông điện thoại. Olivia ôm lấy khuôn mặt Jack trong hai tay và nhìn thật sâu vào mắt anh. “Chuyện này có dính dáng gì đến Stan không anh?”, chị hỏi bởi chị cần biết.
Họ đã cãi nhau về Stan, và theo quan điểm của chị thì Jack ghen tuông hết sức vô lý. Anh cho rằng Stan muốn quay lại với chị - điều này chắc chắn sẽ làm Marge kinh ngạc đây, bởi cô ta đã lấy Stan được hơn mười lăm năm nay rồi. “Không”, anh nói và lại tiếp tục hôn chị. “Chỉ có em và anh thôi. Dẹp Stan ra ngoài đi”.
“Tại sao lại dẹp?”.
“Tại sao không dẹp?”, anh phản ứng.
Olivia không tìm được câu trả lời. Chị cố gắng trở về với thực tại, cố gắng bứt ra khỏi sự mê hoặc mà những nụ hôn của anh và bản nhạc đem lại, bỗng chuông cửa reo vang. Lại một lần nữa tiếng chuông đã cứu chị.
Chị đi nhanh ra mở cửa và thấy con trai Jack ở đó. Trông cậu thật bối rối, vẫn dựa vào chỗ chuông cửa. ''Bố ơi?'', cậu gào lên khẩn thiết.
“Eric, có chuyện gì thế con?”. Jack hỏi và xuất hiện sau lưng Olivia.
“Shelly. Cô ấy sắp vượt cạn rồi. Cô ấy không có ai giúp cả”.
“Cô ấy gọi điện cho con à?”.
“Không, một người bạn bố ạ. Tối qua Shelly bị vỡ ối và sắp sửa sinh rồi. Bây giờ cô ấy có thể sinh vào bất cứ lúc nào. Bạn cô ấy không thể ở lại giúp cô ấy được” cậu dừng lại, ''bố có nghĩ là con nên đến đó không? Có lẽ cô ấy cần con''.
“Nên đến quá đi chứ”. Jack đồng tình.
“Nhỡ Shelly không muốn con đến thì sao, lần trước gặp nhau, cô ấy đã nói thẳng vào mặt con như thế. Cậu vò đầu bứt tóc. ''Nhưng con phải đến thôi. Con cảm thấy là con phải đến đó".
“Vậy con đi đi”.
“Con đã đóng gói đồ đạc và sẵn sàng chuyển đến Reno rồi”.
“Bố biết chứ”.
Eric hình như muốn hỏi thêm gì đó và Olivia biết ngay là cậu định hỏi gì. ''Cháu có muốn bố cháu đi cùng không?''.
“Bố có đi cùng con được không ạ?”.
Olivia chợt thấy yêu Jack tha thiết vì cách xử sự của anh trong tình huống này. Anh ôm con trai và đưa mắt về phía Olivia vẻ biết lỗi. “Nào, chúng ta đi”. Anh ngoái lại nhìn chị và giơ tay về phía chị. “Em có muốn đi cùng anh không?”
Olivia quyết định sau một thoáng cân nhắc. “Hai bố con anh đi đi, lúc nào bọn trẻ con chào đời thì gọi điện cho em nhé”. Chị hài lòng vì Jack đã đặt nhu cầu của con trai lên trên cả nhu cầu của bản thân. Chị nắm lấy tay anh và siết mạnh đầy khích lệ.
Ba tiếng sau, chuông điện thoại nhà chị reo vang. Jack gọi từ bệnh viện, giọng mừng vui khôn xiết. “Hai thằng bé giống nhau như đúc em ạ. Eric đang ở với Shelly. Con bé rất vui khi thấy Eric ở bên nó lúc này. Cả hai thằng bé đều mạnh khỏe”.
“Chúc mừng ông nội nhé”.
“Anh là ông nội chúng nó”, anh nói, ''bọn trẻ giống hệt Eric em ạ. Chẳng ai đặt câu hỏi về mầm mống của chúng nữa đâu. Đặc biệt là con trai anh''.
“Thế nó định xử lý công việc mới thế nào?”. Eric đã đồng ý chuyển công tác và định bắt đầu công việc mới ở Reno sau một tuần nữa.
“Anh không biết, tùy nó thôi. May mà nó vẫn còn thời gian trước khi quyết định”.
Seth và Justine quyết định lấy tên nhà hàng mới là Hải Đăng. Justine thích cái tên đó bởi vì nó gợi cô nhớ về ngôi nhà nơi cô sinh ra và lớn lên, ngôi nhà ấy nằm trên đường Lighthhouse, có nghĩa là hải đăng. Ngọn hải đăng ở tít bên kia khu cảng là một trong những mốc ranh giới dễ phân biệt nhất của dân cư nơi đây. Seth đồng ý cái tên này vì thực tế nó là nhà hàng hải sản. Ý tưởng mở nhà hàng đã được nung nấu trong đầu Seth từ nhiều năm nay. Nhưng vì anh yêu nghề đánh bắt và hơn nữa tiền kiếm cũng rất khá nên anh chưa muốn bỏ. Sống ở nước ngoài trên con tàu của mình, anh chẳng phải chi phí gì nhiều, hơn thế anh vốn là người biết chi tiêu một cách chừng mực. Sau khi lấy Justine, anh nhận ra rằng mình không thể sống xa bờ lâu hơn được nữa. Bây giờ, khi em bé còn chưa chào đời, thì đây chính là thời điểm tốt nhất để khởi động công việc kinh doanh của anh.
Bố Seth đồng ý việc anh mua nhà hàng và lặng lẽ đầu tư vào nhà hàng với tư cách là đối tác bí mật. Công việc tiến triển rất tốt đẹp. Seth đã nghiên cứu và tiên liệu được rằng nhà hàng mới sẽ bị thất bại trong nửa năm đầu tiên. Anh quyết tâm giảm tối đa những rủi ro có thể và tính toán mọi việc thật chính xác. Thực đơn nhân viên, giá cả, trang trí, khuyến mại - anh và Justine đã nghĩ hết đến những việc đó. Seth là một đầu bếp giỏi nhưng anh không có đủ kỹ năng và kiến thức cần thiết để điều hành bếp. Anh đã quảng cáo cho vị trí nhân viên bếp và hỏi thăm, tư vấn các chủ nhà hàng khác. Chẳng bao lâu sau anh biết Jon Bowman là một đầu bếp nổi tiếng. Khi Jon nộp đơn cho vị trí bếp trưởng, Seth đã xem lý lịch và gọi ngay cho anh ta đề nghị đến phỏng vấn.
Vào ngày thứ sáu tuần thứ hai của tháng ba, Jon Bowman đã đến trong lúc công việc xây dựng sửa chữa vẫn còn đang ngổn ngang.
Việc nâng cấp cho nhà hàng mới chỉ hoàn thiện được một phần. Một đội ngũ thợ mộc đang xây phần bên ngoài, còn thợ điện đang mắc những chiếc bóng đèn cố định. Sàn nhà đầy cát vương ra khắp nơi. Những bức tường đã được sơn lớp áo đầu tiên và những chiếc cửa số đã được thay hết. Vợ chồng Seth quyết định giữ lại quầy bar màu gụ, trông nó có vẻ Seth dẫn Jon vào căn phòng có thể là của anh ta nếu được tuyển vào vị trí bếp trưởng, anh ra hiệu cho Jon ngồi. ''Tôi thích phong cách anh lựa chọn trong việc sửa chữa và đổi mới này''. Jon nói khi ngồi xuống. ''Khi nào thì anh định khai trương?''.
“Chúng tôi hi vọng sẽ khai trương vào tuần đầu tiên của tháng Năm”.
Jon liếc nhìn qua vai như thế muốn ước liệu xem công việc sẽ được hoàn thành trong bao lâu nữa. “Lúc đó chắc chắn mọi thứ phải được hoàn thiện rồi”, anh nói đầy tin tưởng.
“Jon này, anh biết đấy, chúng tôi đang tìm một bếp trưởng, người này phải biết nghĩ ra những thực đơn phong phú hấp dẫn và cộng tác với chúng tôi một cách chặt chẽ”.
“Vì vậy tôi mới đến đây. Tôi đã đứng bếp cho nhà hàng Andre được ba năm. Tôi sáng tạo ra thực đơn và luôn luôn thành công với các món hải sản”.
“Trước đó thì sao?”, thực ra Seth đã xem lý lịch rồi, nhưng anh vẫn muốn Jon kể lại chi tiết. Hai vợ chồng anh đã đến nhà hàng Andre hai lần để lấy mẫu những món Jon nấu.
''Tôi làm cho hãng VFW ở Olympia. Nếu muốn thì anh có thể tham khảo vài người về điều đó''. Jon đưa cho Seth xem một bảng ghi tên tuổi của vài người và số điện thoại của họ.
“Thế anh được đào tạo ở đâu ra?”. Bản lý lịch đã nói rất rõ về thông tin này. Jon tỏ ra hơi căng thẳng, nhưng có thế chỉ do Seth tưởng tượng mà thôi. ''Mỗi chỗ học một ít. Tôi không qua các khóa đào tạo chính thức. Tôi bắt đầu làm đầu bếp nấu món ăn nhanh ở một quán ăn sáng tại Tacoma và dần dần tự tìm đường cho mình. Tất nhiên tay nghề của tôi chưa đến mức mở được show diễn riêng trên truyền hình, nếu như đó là loại bếp trưởng mà anh muốn tìm''.
“Không, tôi không cần một người như vậy”. Seth đảm bảo với Jon. Dù sao thì anh cũng không đủ tiền trả lương cho một đầu bếp quá nổi tiếng. Anh vẫn tò mò về lai lịch của Jon nhưng cố gắng không nhấn mạnh vào vấn đề đó nữa. ''Tôi biết anh còn là một nhiếp ảnh gia nữa".
Jon gật đầu. ''Tôi là một bếp trưởng giỏi, nhưng niềm đam mê của tôi là chiếc máy chụp ảnh''.
Anh không che giấu tình yêu của mình với công việc. Điều đó làm Seth rất hài lòng.
“Nếu anh cho tôi cơ hội, thì anh sẽ không phải hối tiếc đâu”. Jon sôi nổi.
Mọi linh cảm của Seth đều mách bảo anh nên thuê người này. ''Tôi sẽ bắt đầu cho bếp hoạt động trong một tháng nữa. Lúc ấy anh rảnh chưa?''
Jon gật đầu. Họ bàn bạc về lương, phúc lợi, công thức món ăn và các chi tiết khác. Bàn bạc xong, Seth đưa Jon đi quanh tham quan và rất hài lòng khi Jon nói muốn được trang trí và thiết kế cho nhà hàng. Anh rất thích những ý tưởng Jon đưa ra và tối hôm ấy anh đã trao đổi lại với Justine.
“Em có cảm giác là Jon Bowman sẽ làm tốt đấy”. Cô nói với chồng khi anh đang lúi húi trong bếp chuẩn bị cho bữa tối.
“Anh cũng nghĩ vậy”.
Justine ngồi trong phòng khách và gác chân lên để hai mắt cá chân không bị phù. Đã đến tháng thứ sáu của thai kỳ, cô mới chỉ bị phù nhẹ, nhưng cô vẫn phải chú ý giữ gìn. Seth nhận đảm đương công việc nấu nướng và anh nghĩ là phải giảm muối trong các món ăn.
“Em thấy mình giống như con hà mã ấy”. Justine phàn nàn, đặt tay lên chiếc bụng bầu tròn xoe của mình.
Seth dựa lưng vào sô-pha và hôn lên cổ cô. “Trông em xinh đấy chứ”, anh nói nhỏ “chẳng giống hà mã tí nào - mặc dù bọn hà mã cũng có duyên”.
“Nghiêm túc đi anh Seth”.
“Anh nghiêm túc đấy chứ”.
Cô quay mặt về phía anh và họ hôn nhau. Seth lại thấy đắm say trào lên rạo rực trong từng đường gân thớ thịt của mình. Anh yêu người con gái này biết bao.
Vài phút sau, ăn xong món mì hải sản, anh hỏi vợ. “Nói cho anh nghe xem em biết gì về Jon Bowman nào”.
“Biết gì là biết gì?”.
“Lai lịch của anh ta ấy. Em có nắm được gì không?.
Justine nghĩ ngợi một chút trước khi trả lời. “Không nhiều lắm. Anh ấy vẫn hay bán tranh ảnh cho phòng tranh trên phố Harbor. Nhưng mà sao cơ?”.
''Hình như anh ta hơi.... bực mình khi anh hỏi về điều đó''
“Thế anh ta học trường nào ra?”, Justine hỏi
“Anh ta không nói, nhưng anh đã hỏi chuyện hai người giới thiệu anh ta. Cả hai đều là chủ nhà hàng cũ của anh ta và họ đã hết lời ca ngợi. Mà em đã bao giờ xem ảnh anh ta chụp chưa?”.
Justine dịch dần sang chỗ Seth anh kéo ghế cho cô. “Maryellen cho em xem một vài bức ảnh của anh ta trước Giáng sinh. Chúng thật kỳ diệu anh ạ. Anh có thế cảm nhận trong đó một vẻ đẹp và một cảm xúc rất lạ”.
“Hừm. Có lẽ chúng ta cũng phải mua vài bức. Để treo ở lối ra vào. Em nghĩ sao?”
“Em nghĩ ông chồng thông thái của em đang có một ý tưởng tuyệt vời đấy”. Họ mỉm cười và thấy cuộc sống sao mà mãn nguyện đến thế.
Ghi Chú: (1) Theo thần thoại Hi Lạp, nhành ô liu tượng trưng cho hòa bình.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.