Bomber's Moon

Chương 14.15:




Lưu ý: Bản hoàn chỉnh của hai chương này được đăng tải tại
Roger chào đón hai thanh niên bằng ánh mắt lạnh như băng với ý định tìm kiếm manh mối để kết tội ngay khi họ bước vào phòng ăn. Thoạt nhìn, cả hai đều trông không chê vào đâu được, tay người Mỹ mặc áo sơ mi đi mượn – hơi chật ở vai và ngực – nhưng cũng tạm được, cà vạt thắt gọn gàng, một lọn tóc ướt nước mưa vểnh ra sau tai. Hắn ngồi xuống ở vị trí quen thuộc của mình, một lần nữa trưng ra vẻ mặt đau răng khi nhìn thấy đủ loại dao nĩa xếp thành hàng như dụng cụ phẫu thuật bày ra trước mắt. Louis thì vẫn như thường lệ, áo sơ mi, khuy măng sét, cà vạt sọc xanh đậm, áo khoác đen. Vì chiếc xe lăn bị ướt nên anh lại phải dùng nạng có bọc cao su bên dưới, lúc đập xuống sàn phát ra những âm thanh nghe thật nặng nề.
"Chiều nay phu nhân đã gọi lại." Roger nói, rót champagne cho họ, thứ rượu trong veo ấy sủi bọt đầy vẻ phấn khích.
"Vậy sao?" Louis lấy quả ô liu từ chiếc đĩa chạm khắc hình lá nho. Từ giọng điệu, có thể thấy dường như anh không có hứng thú với cuộc trò chuyện này. "Bà ấy nói gì?"
"Phu nhân sẽ trở lại vào ngày mai. Bà rất lo lắng cho vết thương của ngài và đang mong đợi – xin phép trích lời phu nhân – "được gặp Trung sĩ Sinclair anh dũng.""
Con mèo từ đâu xuất hiện, dụi dụi vào ống quần của Louis và khẽ kêu hai tiếng meo meo. Louis cúi xuống bế nó vào lòng, xé một miếng thịt hun khói nhỏ cho con mèo gặm rồi vuốt ve bộ lông dài mượt của nó, "Chắc hẳn Trung sĩ cũng sẽ vô cùng vinh hạnh khi được gặp bà ấy, phải không?"
Chuck không biết nên trả lời thế nào, lại bị Louis đá vào chân ở dưới gầm bàn, đành cười cứng đờ và gật gật đầu.
Sau khi món tráng miệng cuối cùng được dọn ra, hai phi công đã nhanh chóng thoát khỏi tầm mắt của người hầu già, lấy trộm thùng đá có cắm chai champagne, dưới sự chỉ huy của Louis mà chạy băng băng qua những hành lang và căn phòng tối tăm ngỡ như kéo dài vô tận để đến phía bên kia của dinh thự. Hết căn phòng này lại tới căn phòng khác, tất cả đều không có ánh đèn, nối tiếp nhau như ảo ảnh trong gương. Chuck đẩy hai cánh cửa gỗ sồi nặng nề ra, bước vào phòng khiêu vũ tối om với không gian rộng lớn tràn ngập tiếng vang. Trần nhà cao vút như biến mất trong bóng tối, những bức chân dung trên tường với đôi mắt sáng quắc, tất cả họ – những người lính, người phụ nữ và cả những con ngựa tựa như đang quan sát cả hai. Hai người đi nép vào tường giống hệt mấy con chuột nhắt, rời khỏi phòng bằng cửa hông, lại tới một phòng trà nhỏ ấm cúng. Đi xa hơn nữa là nhà kính, nơi mà không khí ấm áp và ẩm ướt cứ ùa vào trước mặt họ, khiến cho mũi và miệng cứ như được ủ ấm bằng khăn quàng cổ. Mùi của bùn đất và vị chan chát của rễ cây sực nức bốc lên đều nồng như nhau, giữa muôn vàn loài lan nhiệt đới, một cây ca cao đứng trơ ​​trọi, cành lá lưa thưa của nó vươn ra mái nhà kính nơi mưa tuôn rơi.
Điểm đến của họ là sảnh Thổ Nhĩ Kỳ, tuy đặt tên như vậy nhưng thực chất được Hầu tước thiết kế theo phong cách nhà ở của Đại Li-băng¹, do ngài từng trú tại Beirut khoảng hai tháng vào năm 1929 – một thoáng bình yên² giữa hai cuộc chiến tranh thế giới. Sau này, khi quay lại hòn đảo lắm mưa nhiều bão xưa, ngài đã trang hoàng lại một trong những phòng khách bỏ trống thành thủ đô đầy nắng của Đại Li-băng. Các mảng gỗ ép ban đầu đã được gỡ xuống, để lộ ra một bức tường đá thô ráp – cũng là nơi treo hai khẩu súng trường từ thời Đế Quốc Ottoman³ cũ. Các cửa kính sát đất kéo tới trần nhà cũng được bổ sung thêm khung sắt dập hoa văn theo phong cách Ả Rập, chiếc trường kỷ từ thời Edward⁴ thêu hoa nay được thay thế bằng những chiếc đệm có màu sắc rực rỡ và những tấm thảm đắt tiền từ phương Đông. Bàn trà thấp bằng gỗ thông được chuyển thẳng đến từ Beirut, bộ ấm trà bằng đồng thau, hộp đựng thuốc lá bằng bạc và shisha. Chuck đặt thùng đá xuống, bật chiếc đèn bàn có trang trí tua rua lên. Ánh sáng vàng mờ ảo như tạo ra lớp sương mù giăng giăng, lan rộng trong bóng tối khiến cho căn phòng trông giống một hang động vùng cao nào đấy ở Beirut.
"Có rất ít người tới đây." Louis cẩn thận ngồi xuống thảm, vùi đầu vào trong đống gối căng phồng, "Trước kia cha từng viết thư mời và tổ chức vài bữa tiệc cocktail theo phong tục kỳ lạ ở đây, thế nhưng sau đó lưng của ông không được tốt nữa, không thể dùng loại bàn thấp như vậy. Chú Albert thỉnh thoảng ngủ lại, chủ yếu là khi chú ấy muốn tiếp đãi các quý cô."
"Vậy còn em?"
Louis không cười, nhưng đôi mắt của anh hơi nheo lại, ánh lên nụ cười: "Hiển nhiên là em muốn tiếp đãi anh bạn người Mỹ của em rồi."
"Cụ thể thì em định làm gì?"
"Định tùy cơ ứng biến, nhưng bước đầu tiên là khui rượu ra uống."
"Vậy nhân tiện, có lẽ tôi sẽ tháo cà vạt ra."
"Sự tôn trọng dành cho rượu champagne ngon không cho phép em làm chuyện này, Trung sĩ."
Chuck nhún vai, một tay tháo cà vạt của hắn ra và ném sang một bên, tay còn lại cởi khuy áo sơ mi. Hắn lấy chai champagne ra khỏi làn nước lạnh giá, cái chai thuỷ tinh còn dính mấy giọt nước li ti chảy xuống đáy, và cũng phải nói, âm thanh lúc bật nút chai bằng gỗ nghe thật vui tai. Thấy bọt khí trào ra và nhỏ giọt lên bàn tay, Chuck thản nhiên lấy hai tách trà từ chiếc bàn thấp kia để rót rượu vào.
"Mẹ em sẽ ngất luôn nếu thấy cảnh chúng ta uống rượu như thế này." Louis cầm tách trà.
"Em có vẻ sợ hãi khi phải gặp bà ấy."
"Em không sợ, nhưng anh thì nên sợ."
"Vì bà lột da lính Mỹ để trang trí phòng khách?"
Louis lắc đầu cười với tách trà: "Gần như vậy."
Chuck xuống ngay bên cạnh Louis, đặt chai rượu ở giữa hai người, "Thế thì thật sự là chết tiệt đấy!"
"Charles."
"Chỉ huy."
"Em nghĩ là anh cần một khoá huấn luyện mới." Louis đặt tách trà xuống, quay sang nhìn Chuck, hai tay ôm lấy mặt đối phương như thể đang xem xét một bức tượng bán thân chưa còn hoàn thiện, "Ví dụ như, hãy bắt đầu với phép xã giao chuẩn mực nhé."

Nửa đêm mưa mới tạnh, sáng sớm hôm sau lại ào ào trút xuống đến tận giữa trưa mà vẫn không có dấu hiệu ngớt đi. Chuyến trở về của Hầu tước phu nhân do đó đã bị gián đoạn, giúp Chuck có thêm hẳn hai mươi tư giờ nữa để học hỏi tất tần tật lễ nghi của một thế giới khác. Louis ngồi ở bàn đối diện giám sát tên học sinh thiếu kiên nhẫn này, gõ gõ ngón tay lên khăn trải bàn.
"Cứ như lớp Toán học ấy nhỉ," Chuck tức giận với cái thìa, "Làm sao em nhớ được vậy?"
"Luyện tập, hơn nữa chuyện này thật ra cũng không khó."
"Không khó, chỉ là thừa thãi thôi." Chuck thả cái thìa xuống đĩa thức ăn, lớn tiếng nói: "Đã đến lúc tất cả mọi người nên biết rằng dù họ đặt thìa xuống theo kiểu gì thì mùi vị món canh cũng sẽ không thay đổi. Hơn nữa, tên ngốc nào lại nghĩ đến việc ăn chuối bằng dao với nĩa chứ?"
"Tên ngốc nào có giáo dưỡng ấy."
"Thật sự thì chỉ cần có một đôi tay còn nguyên là đủ rồi."
"Chúng ta không phải là tinh tinh, Trung sĩ."
"Theo tiêu chuẩn này của em, ba phần tư dân số thế giới đều là tinh tinh."
Louis hình như muốn nói thêm điều gì đó, hẳn là định chỉ ra những điểm giống nhau giữa người Mỹ và loài tinh tinh, nhưng cuối cùng lại không lên tiếng. Anh lắc chiếc chuông có tay cầm bằng gốm, Roger không một tiếng động mà ngay lập tức xuất hiện ở cửa, khiến Chuck hoài nghi rằng từ đầu ông ấy đã trú tại gác lửng trên trần nhà, hễ nghe thấy tiếng huýt sáo của chủ nhân liền phi xuống. Louis chống nạng đi về phía cửa, Chuck ném chiếc khăn ăn nhàu nhĩ xuống đĩa rồi đứng dậy định theo sau anh.
"Không, Trung sĩ Sinclair, anh sẽ ở lại nơi này." Louis quay nửa người lại, "Tiếp theo Roger sẽ dạy anh khiêu vũ."
Chuck nhìn anh, sau đó nhìn về phía kền kền: "Anh đang đùa đấy à?"
"Tôi đã dạy khiêu vũ cho hơn một nửa số tiểu thư trẻ ở Luân Đôn, nếu đó là điều mà Trung sĩ lo lắng." Khuôn mặt của người hầu già nom hệt như một chiếc mặt nạ gỗ chạm khắc đã nằm quá lâu trong một góc ẩm ướt nào đó dưới tầng hầm.
"Tôi không lo về chuyện đấy – anh đợi đã." Chuck bước qua kền kền, ra ngoài hành lang, nắm lấy khuỷu tay của Louis, "Tôi không cần học khiêu vũ."
"Tất nhiên là cần rồi, một quý ông luôn..."
"Anh cố ý."
Louis lại nở nụ cười mà Chuck vô cùng quen thuộc, tựa như một chú mèo vừa đẩy chiếc bình xuống sàn nhưng lại giả vờ rằng đó không phải là lỗi của mình, "Anh sợ Roger sao, Trung sĩ?"
"Sao có thể."
"Đương nhiên là không rồi." Louis ra vẻ đồng tình một cách ôn hoà, quá đỗi ôn hoà, khiến Chuck chợt thấy hoang mang, "Dù sao anh cũng là một anh hùng bất tuân mệnh lệnh dám lái máy bay ném bom tấn công cả Saint-Nazaire kia mà."
"Chuyện qua lâu như vậy rồi mà anh vẫn còn tính toán với tôi à?"
"Bây giờ tôi sẽ đến sảnh Thổ Nhĩ Kỳ đọc sách thưởng trà, cũng có thể quá nửa thời gian tôi sẽ thiếp đi mất," Louis nói như thể anh không nghe thấy lời lên án của Chuck, "Đừng để Roger tội nghiệp phải chờ, Trung sĩ, chúc hai người có một khoảng thời gian vui vẻ."
...
Lúc Chuck mở cửa bước vào sảnh Thổ Nhĩ Kỳ, tách trà trên chiếc bàn thấp đã nguội lạnh, món điểm tâm phủ dừa vụn không có dấu hiệu bị thử qua. Louis ngủ bên cửa sổ, vùi mình trong đống chăn nệm mềm mại và thảm lông tua rua, ngoài trời mưa rơi tí tách, ánh sáng mờ mờ mang theo những giọt nước chiếu đến cùng với chiếc bóng cong cong của khung sắt dập hoa văn đổ dài lên người anh. Chuck cúi xuống, khẽ hôn lên gương mặt Louis, làm anh phát ra một âm thanh mơ hồ không rõ tiếng, cuốn sách đang mở tuột khỏi tay anh rơi xuống thảm.
"Tôi ghét em." Chuck nói.
"Cũng chúc anh một buổi chiều tốt lành, Trung sĩ," Louis đáp lời, nghiêng đầu để ngắm nhìn khuôn mặt của Chuck, "Em tin là anh đã trải qua ba tiếng đồng hồ đầy bổ ích với Roger."
"Chỉ cần ở đó thêm một phút nữa thôi thì có thể tôi sẽ bóp cổ ông ta, hoặc ông ta sẽ bóp cổ tôi, và chỉ có một người sống sót bước ra khỏi phòng ăn."
"Ở đây tụi em không dùng từ "bóp cổ", mọi người nói một cách lịch sự là "mở mang tầm mắt cho nhau".
"Vậy "cách lịch sự" để nói về việc chúng ta đã làm suốt hai ngày qua là gì?"
"Thú tiêu khiển những ngày hè."
Chuck thở dài, hôn anh. Trong khoảnh khắc đôi môi kia dán lên môi anh, Louis chợt mỉm cười, hơi thở ấm áp phả vào chóp mũi Chuck. Nụ hôn nhanh chóng chuyển từ lười biếng sang vội vã, Chuck cởi từng cúc áo sơ mi của Louis, nhưng đã bị anh ngăn lại khi chiếc cúc cuối cùng sắp bung nốt. Chuck phát ra một âm thanh đầy chán nản, cúi đầu cắn mạnh vào xương quai xanh của Louis.
"Để lại bất kỳ dấu vết gì trên tấm thảm này cũng sẽ bị coi là phạm tội đấy." Louis nhẹ nhàng xoa xoa gáy của Chuck, "Anh có biết sau khi tắt đèn nam sinh trường nội trú thường làm gì không?"
"Sao đột nhiên em lại nhắc tới chuyện này?"
"Đêm nay tới phòng em, em sẽ cho anh biết."
Lời hứa hẹn này khiến Chuck đứng ngồi không yên cả buổi, bữa tối vốn dài đằng đẵng nay còn dài hơn ngày thường. Hắn ăn tạm gì đó một cách máy móc, cũng không nhớ mình đã bỏ gì vào miệng. Louis thì chọn một vài chủ đề không liên quan để duy trì cuộc trò chuyện khô khan, hai người đều biết rằng đối phương thực sự không quan tâm đến thời tiết hay nguồn gốc xuất xứ của món chân giò hun khói. Chuck kiếm cớ rời khỏi phòng ăn ngay sau khi món tráng miệng được dọn lên. Louis chúc hắn ngủ ngon, ra hiệu cho người hầu rót đầy ly cho mình, như thể chẳng có gì phải vội hết.
Chuck cởi áo khoác, không bật đèn, đợi trong bóng tối gần ba mươi phút trước khi nghe thấy âm thanh nặng nề của chiếc nạng chống xuống sàn nhà, theo sau đó là tiếng đóng cửa nhẹ nhàng. Hắn đợi khoảng mười phút nữa trước khi đẩy cửa sổ trèo ra ngoài và nhảy vào bụi rậm. Cũng nhờ có trận mưa xối xả trước đó mà không khí trong lành mát mẻ, đất vườn ẩm mềm, lá cây còn đọng lại những giọt nước li ti dù rằng những bụi gai thì không được "khách khí" cho lắm, liên tục mắc vào ống quần của hắn. Chuck thấy ánh sáng hắt ra từ cửa sổ, dẫm lên một tảng đá nhỏ nhô lên ở ngoài bức tường, gõ vào cửa kính.
Louis mở cửa sổ, lùi lại một bước cho Chuck trèo vào. Lá cây và đất cát thi nhau rơi rớt xuống sàn nhà. Thiếu úy đã thay bộ đồ ngủ màu xám nhạt, bởi vì vẫn đang chống nạng nên trông anh hệt như một con cò gầy guộc, "Anh nên gõ cửa đường hoàng như một quý ông, Trung sĩ."
"Xin lỗi, vừa không đường hoàng vừa không phải quý ông."
"Hết thuốc chữa," Louis thì thầm, bước tới và hôn lên môi Chuck. Áo ngủ tuột xuống sàn, rồi đến chiếc nạng – lạch cạch một tiếng – và rồi đến cả chiếc áo sơ mi không vừa người của Chuck. Chuck bế anh về phía giường, suýt chút nữa vấp phải cái quần mà hắn đang vội cởi, hai người đổ nhào xuống chiếc chăn bông mềm mại, cười khúc khích như những đứa trẻ.

Chú thích của người dịch (Translator's Note):
1. Gốc: 黎巴嫩, tiếng Việt: Li-Băng. Theo đúng ngữ cảnh phải dùng tên gọi Đại Li-Băng (1920 – 1943) tiền thân của Li-Băng do Pháp uỷ trị. Sau này, vào năm 1943, Li-Băng mới tuyên bố thành lập một nhà nước mới với thủ đô là Beirut.
2. Gốc: 两次大战之间的玫瑰色年代. Tác giả đã dùng cụm từ "Niên đại hoa hồng" để ám chỉ giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh thế giới khi mà hòa bình tạm thời được thiết lập, còn gọi là Interwar period. Cụm từ này hiếm thấy trong tiếng Việt, nên người dịch đã dùng "Một thoáng yên bình" thay thế.
3. Gốc: 鄂图曼时期, tiếng Việt: Thời kỳ Đế quốc Ottoman, nhắc đến một Đế quốc trải rộng xuyên suốt Nam Âu, Trung Đông và Bắc Phi tới thế kỷ 20, sau đó suy vong và trở thành Thổ Nhĩ Kỳ, các lãnh thổ khác ở Trung Đông được trao cho Anh và Pháp, trong đó Li-Băng được trao cho Pháp.
4. Gốc: 爱德华, tiếng Anh: Edwardian Era. Tuy không được làm rõ, nhưng thời kỳ Edward luôn được hiểu là thời của Vua Edward VII (1901 – 1910), đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ Victoria, mở ra một thời đại mới được miêu tả như là "Thời kỳ vàng son lãng mạn của những buổi chiều hè đằng đẵng và những bữa tiệc sân vườn, đắm mình trong ánh mặt trời không bao giờ lặn trên Đế quốc Anh." Đây cũng là thời kỳ cuối cùng trong lịch sử nước Anh được đặt tên theo vị vua trị vì.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.