Bảy Năm Sau

Chương 1:




Nằm cuộn tròn trong chăn, Camille quan sát con chim hét đang đậu trên gờ cửa sổ phía cuối giường. Gió heo may xào xạc qua ô cửa kính, mặt trời lấp lóa giữa những vòm lá, rọi những giọt nắng màu mật ong lên vách kính ghép màu. Hôm qua trời mưa suốt đêm nhưng lúc này, bầu trời sáng rỡ một màu xanh trong vắt báo hiệu sẽ là một ngày tháng Mười tuyệt đẹp.
Nằm dưới chân giường, một chú chó giống Golden Retriever lông màu kem ngóc đầu dậy, mũi hếch lên đánh hơi.
- Lại đây, Buck của chị, lại đây nào, cún xinh! Camille vỗ vỗ lên gối mời mọc con chó.
Con chó không để chủ phải nhắc lại. Bằng một cú nhảy, nó lại chỗ cô chủ để nhận những cái vuốt ve dành cho nó mỗi sáng. Cô bé mơn trớn nó, vuốt ve cái đầu tròn trịa và đôi tai cụp của nó rồi dặn lòng:
Phấn chấn lên cưng!
Cô bé tiếc nuối chui ra khỏi chiếc ổ ấm áp trên giường. Trong nháy mắt, cô bé đã mặc xong bộ đồ thể thao, xỏ đôi giày basket, cuộn mái tóc vàng thành một búi lỏng lẻo trên đầu.
- Đi nào, Buck, nhúc nhích thôi nào, cún cưng, chúng ta đi chạy thôi! Vừa gọi cô bé vừa lao nhanh ra cầu thang dẫn xuống phòng khách.
Được thiết kế vây quanh một sân trời rộng rãi, ba tầng lầu của ngôi nhà tắm mình trong ánh sáng tự nhiên. Ngôi nhà phố thanh lịch xây bằng đá nâu thuộc sở hữu của gia đình Larabee đã ba đời nay.
Đó là một ngôi nhà ba tầng có nội thất hiện đại và trang nhã, các phòng thoáng đãng, các bức tường được trang trí bằng nhiều bức tranh từ những năm 1920 của Marc Chagall, Tamara de Lempicka và Georges Braque. Trái ngược với mấy bức tranh, phong cách tối giản trong lối trang trí gợi người ta nhớ đến các dinh thự ở Soho hay TriBeCa hơn là tư dinh của những người theo phái bảo thủ ở Thượng Đông Manhattan.
-Ba ơi? Ba có đó không? Camille hỏi khi bước vào bếp.
Cô bé vừa uống một cốc nước mát vừa nhìn ngó xung quanh. Bố cô đã dùng xong bữa sáng. Trên quầy bar, tách cà phê chỉ còn một nửa đặt cạnh phần thừa của chiếc bánh vòng cùng tờ Nhật báo phố Wall, tờ báo mà Sebastian Larabee thường đọc mỗi sáng trong lúc uống cà phê, và tạp chí Strad[1].
[1]. Tạp chí chuyên về đàn dây. (Mọi chú thích không có lưu ý thêm đều của nguyên bản tiếng Pháp.)
Dỏng tai lên nghe ngóng, Camille nhận ra tiếng nước vòi sen từ trên tầng. Có vẻ bố cô vẫn đang tắm.
- Này!
Cô bé vỗ nhẹ Buck rồi sập cửa tủ lạnh để xua chú chó không ngoạm vào phần gà rô ti còn thừa.
- Lát nữa mày sẽ được ăn, đồ háu đói!
Cài tai nghe vào tai, cô bé ra khỏi nhà rồi cất bước chạy lên phố.
Dinh thự của gia đình Larabee nằm giữa đại lộ Madison và đại lộ Công viên, ở phố 74, trong một con ngõ xinh xắn rợp bóng cây. Dù mới là sáng sớm, khu phố này đã rất nhộn nhịp. Taxi và xe limousin nối đuôi nhau trước các dinh thự và những tòa nhà sang trọng. Nai nịt gọn gàng trong bộ chế phục, đám nhân viên giữ cửa hăng hái đi đi lại lại trong màn vũ kịch chóng mặt, gọi taxi, mở cửa, xếp hành lý vào cốp xe.
Camille chạy vào đại lộ 5 rồi lên Millionaire’s Mile, con đường triệu phú mà khi chạy dọc theo Công viên Trung tâm, người ta sẽ thấy nối tiếp nhau những bảo tàng danh giá nhất thành phố: Bảo tàng Nghệ thuật thành phố, Bảo tàng Nghệ thuật hiện đại Solomon R. Guggenheim, Triển lãm Neue...
- Đi nào, cún xinh, làm trước thưởng sau chứ! Cô bé vừa nói với chú chó Buck vừa tăng tốc chạy vào đường dành cho người chạy bộ.
Vừa nhận thấy con gái đã rời nhà, Sebastian Larabee liền ra khỏi phòng tắm. Anh vào phòng Camille để thực hiện cuộc kiểm tra hàng tuần. Anh bắt đầu làm như thế từ khi con gái bước vào tuổi dậy thì.
Đôi mắt u ám và cặp lông mày nhíu lại, anh có vẻ khó chịu vì mấy tuần nay, anh cảm thấy Camille có vẻ bí ẩn hơn, lại chểnh mảng chuyện học hành và tập luyện violon.
Sebastian lướt mắt khắp phòng: một căn phòng thiếu nữ rộng rãi sơn màu phấn toát ra không khí dịu nhẹ và mơ mộng. Bên cửa sổ, tấm rèm mỏng ánh lên dưới những tia nắng. Trên chiếc giường lớn, đống gối màu sắc và một tấm chăn lông vũ cuộn tròn lại thành một đống. Sebastian máy móc đẩy tấm chăn ra rồi ngồi lên đệm.
Anh cầm lấy chiếc smartphone đang nằm trên mặt bàn ngủ. Vẻ dửng dưng, anh nhập bốn con số mật khẩu mà anh đã lén thấy được vào hôm cô bé lơ đãng gọi điện thoại ngay trước mặt anh. Mở khóa thành công, Sebastian cảm thấy một luồng kích thích dâng lên trong máu.
Mỗi lần đánh liều xâm nhập chốn riêng tư của Camille, anh lại thấy sợ những điều có thể phát hiện ra.
Cho tới giờ vẫn chẳng có gì nhưng anh vẫn tiếp tục...
Anh xem kỹ những cuộc gọi đến và đi gần đây. Anh biết tất cả mấy số điện thoại này: số của đám bạn gái cùng trường St. Jean Baptiste, số của cô giáo dạy violon, số của bạn chơi tennis với con gái anh...
Không có con trai. Không có số lạ. Không có mối đe dọa nào. Thở phào nhẹ nhõm!
Anh lướt qua những bức ảnh mới chụp. Chẳng có gì là quá trớn. Mấy bức ảnh được chụp dịp sinh nhật cô bé McKenzie, con gái ngài thị trưởng, bạn cùng trường của Camille. Phòng trường hợp bỏ sót điều gì, anh zoom vào mấy vỏ chai để yên tâm là trong đó không chứa rượu. Toàn Coca và nước trái cây.
Anh tiếp tục công cuộc kiểm tra hòm thư điện tử, tin nhắn điện thoại cũng như lịch sử duyệt web và tin nhắn chat. Lại một lần nữa anh thấy tất cả các liên hệ và nội dung các cuộc trò chuyện cũng không có gì nghiêm trọng.
Nỗi lo lắng của anh đã tụt xuống một nấc.
Anh đặt điện thoại xuống rồi kiểm tra đống đồ và giấy tờ để trên bàn học. Chiếc máy tính xách tay nằm chình ình ở đó, nhưng Sebastian không buồn để tâm.
Sáu tháng trước, anh đã cài đặt phần mềm keylogger vào máy tính của con gái. Một phần mềm do thám cho phép nhận báo cáo đầy đủ về các trang web thường xuyên truy cập của Camille cũng như bản sao các thư điện tử và các cuộc “chat chít” của cô bé. Lẽ dĩ nhiên là không ai biết việc này. Những người khắt khe chắc chắn sẽ quy kết anh, coi anh là một ông bố lạm quyền. Nhưng Sebastian không quan tâm chuyện đó. Vai trò người bố đối với anh là phải biết tiên liệu để đẩy lùi những mối nguy hiểm tiềm tàng có thể xảy đến với con gái. Và trong trường hợp đó, mục đích có thể biện minh cho cách thức thực hiện.
Sợ Camille có thể về sớm, anh liếc nhìn qua cửa sổ rồi mới tiếp tục tìm kiếm. Anh đi vòng lên đầu giường được thiết kế để ngăn cách căn phòng với khu thay đồ. Tại đó, anh mở lần lượt từng ngăn tủ tường, nhấc từng chồng quần áo lên, bĩu môi trước giá treo quần áo bằng gỗ bên trên có vắt chiếc váy cúp ngực mà anh thấy là hơi quá quyến rũ đối với một cô bé ở tuổi con gái anh.
Anh kéo ngăn tủ đựng giày ra thì phát hiện có giày mới: một đôi cao gót hiệu Stuart Weitzman da bóng. Anh âu sầu nhìn đôi giày cao gót, đối với anh chúng là dấu hiệu đau xót cho thấy mong muốn bay khỏi tổ quá sớm ở con gái.
Trong lòng bực tức, anh đặt chúng xuống sàn thì nhìn thấy một túi giấy trang nhã màu hồng pha đen, trang trí logo của một nhãn hiệu đồ lót nổi tiếng. Anh lo sợ mở túi ra thì thấy một đồ xa tanh gồm một áo lót nâng ngực và một quần ren.
Lần này thì thật quá thể! Anh đùng đùng quăng chiếc túi vào sâu trong ngăn tủ. Vẻ cáu kỉnh, anh sập cửa tủ quần áo lại, sẵn sàng gặp Camille để nói chuyện về hành động của cô bé. Rồi, chẳng hiểu trời xui đất khiến thế nào anh lại đẩy cánh cửa phòng tắm. Tìm trong túi đồ vệ sinh cá nhân, anh lôi ra được một vỉ thuốc. Một dãy số hướng dẫn thứ tự dùng mỗi viên. Một trong hai hàng thuốc đã được mở. Sebastian cảm thấy tay mình run rẩy. Cơn giận dữ dần chuyển thành nỗi hoảng loạn khi sự thật cứ dần hiển hiện trước mặt anh: cô con gái mười lăm tuổi của anh đang dùng thuốc tránh thai.
Phần một: Căn gác mái ở Brooklyn
“Hãy đi một mình nếu bạn muốn lãng du. Khi có bạn đồng hành, chúng ta thường sẽ tới một nơi nào đó.”
Alfred HITCHCOCK, Vertigo

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.